Ông nhận định thế nào sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam trong thời gian qua?
Mười lăm năm qua ngành du lịch đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được những kết quả quan trọng rất đáng khích lệ. Khách du lịch quốc tế đã tăng từ 2,3 triệu lượt vào năm 2001 lên hơn 10 triệu năm 2016 (gấp 5 lần). Khách du lịch nội địa cũng tăng lên đáng kể và đạt 62 triệu lượt năm 2016, gấp 6 so với năm 2001. Ngành hiện đóng góp trực tiếp khoảng 6,8% GDP, còn tính gián tiếp và lan toả đạt 14% GDP. Trong 3 tháng đầu năm nay ngành tiếp tục tạo nên dấu ấn mới với việc đón và phục vụ hơn 3,2 triệu khách quốc tế, tăng 29 lần so với cùng kỳ năm 2016.
Ông Ngô Hoài Chung, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam |
Du lịch hiện là 1 trong 5 ngành có thu nhập ngoại tệ lớn nhất với hơn 4 tỷ USD mỗi năm. Hoạt động du lịch sôi động từ đô thị đến nông thôn, từ ven biển hải đảo đến vùng núi cao nguyên, tạo thêm nhiều việc làm cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tính đến nay hoạt động du lịch đã thu hút khoảng 3 triệu lao động trực tiếp và gián tiếp, ở đâu phát triển du lịch ở đó đời sống của dân cư được cải thiện, góp phần quan trọng vào xoá đói giảm nghèo của đất nước.
Bên cạnh đó, hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành cũng đang ngày một phát triển. Loại hình sản phẩm, dịch vụ du lịch ngày càng phong phú, đa dạng. Chất lượng và tính chuyên nghiệp từng bước được nâng cao. Lực lượng doanh nghiệp du lịch lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, tạo được một số thương hiệu có uy tín ở trong nước và quốc tế. Bước đầu hình thành một số địa bàn du lịch trọng điểm.
Với sự tăng trưởng trên, Việt Nam đã tăng 8 bậc trên bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh du lịch toàn cầu năm 2017 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), xếp hạng 67 trên 136 nền kinh tế. Các yếu tố nổi trội về năng lực cạnh tranh của chúng ta gồm tài nguyên tự nhiên (hạng 34), tài nguyên văn hóa (hạng 30) và sức cạnh tranh về giá (hạng 35)… Tuy nhiên để nâng cao sức cạnh tranh của ngành du lịch, Việt Nam cần cải thiện độ bền vững môi trường (hạng 129). Các quy định lỏng lẻo về môi trường (hạng 115), mức độ chất thải (hạng 128), nạn phá rừng (hạng 103) và hạn chế về xử lý nước (hạng 107) đang tàn phá môi trường tự nhiên cần phải được tập trung giải quyết. Đồng thời Việt Nam còn hạn chế đối với các chỉ số như mức độ yêu cầu thị thực nhập cảnh (hạng 116), chất lượng hạ tầng du lịch (hạng 113)…
Theo ông lỗ hổng lớn nhất của ngành du lịch Việt Nam hiện nay là gì?
Mặc dù đã đạt nhiều kết quả khích lệ như đã nói ở trên nhưng tôi cho rằng, du lịch Việt Nam vẫn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng của xã hội. Sản phẩm du lịch chưa thực sự hấp dẫn và có sự khác biệt, khả năng cạnh tranh chưa cao. Chất lượng dịch vụ du lịch chưa đáp ứng yêu cầu. Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch chưa cao. Môi trường du lịch, an toàn thực phẩm và an toàn giao thông còn nhiều bất cập. Công tác xúc tiến quảng bá du lịch còn nhiều hạn chế về nguồn lực, sự phối hợp và tính chuyên nghiệp, hiệu quả chưa cao. Nguồn nhân lực du lịch vừa thiếu lại vừa yếu. Doanh nghiệp du lịch chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn - nhân lực - kinh nghiệm quản lý còn hạn chế…
Vậy chúng ta nên khắc phục như thế nào, thưa ông?
Để khắc phục Việt Nam cần đổi mới nhận thức, tư duy về phát triển du lịch, cơ cấu lại ngành du lịch bảo đảm tính chuyên nghiệp - hiện đại và phát triển bền vững theo quy luật của kinh tế thị trường; hoàn thiện thể chế chính sách, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật; tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch, phát triển nguồn nhân lực cho ngành. Điều cuối cùng và quan trọng hơn cả là chúng ta phải tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, cộng đồng phát triển du lịch. Tạo thuận lợi ở đây chính là đẩy mạnh cải cách hành chính, khuyến khích doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, đa dạng hóa loại hình sản phẩm du lịch phù hợp với định hướng cơ cấu của ngành.
Xin cảm ơn ông!