Hành quân vào chiến dịch |
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đi vào giai đoạn khốc liệt nhất, lúc đó anh Nguyễn Công Mẹo đã ngoài 30. Trong đợt cao điểm tuyển quân đầu năm 1966, giữa cái rét căm căm mà lòng anh nóng hừng hực đến ghi danh nhưng vẫn canh cánh trong lòng sợ người ta không lấy vì... tuổi cũng cưng cứng. Thêm nữa, anh còn sợ bị đánh trượt vì bị rụng mất hai chiếc răng và được ghi trong hồ sơ. Giữa những e ngại đó, anh thẳng thắn: “Tôi có thể rụng răng nhưng tinh thần chiến đấu chống giặc Mỹ trong tôi không bao giờ rụng”.
Và ước mơ của anh cũng được thỏa nguyện. Ngày 31/1/1966, anh nông dân Nguyễn Công Mẹo chính thức trở thành người lính Quân đội nhân dân Việt Nam. Để lại gia đình cùng người vợ và hai con thơ, những công việc đồng áng thân quen, tạm biệt nếp nhà tranh đẫm hương lúa, anh và những người cùng quê, bạn mới quen xốc ba lô lên đường.
Nhưng cũng phải chờ đến cả năm sau đó, khi thời gian luyện quân kết thúc, đơn vị của anh thuộc Sư đoàn 304B mới được lệnh vào Nam. Ăn Tết Đinh Mùi xong, cả đơn vị cuốc bộ ròng rã 5 tháng trời mới vào tới chiến trường. “Hai Lúa” xứ Thanh ngày nào đã nhanh chóng trưởng thành từ tiểu đội phó, tiểu đội trưởng rồi trung đội phó, trung đội trưởng. Chỉ trong 5 tháng, từ tháng 8/1967, khi bắt đầu đánh những trận đầu tiên tới cuối tháng 1/1968, khi là chính trị viên phó đại đội, anh cùng đồng đội đánh hàng chục trận, diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm lính Mỹ, Ngụy; bắn cháy 7 xe tăng, 3 xe quân sự và 3 trực thăng chiến đấu, phá hủy nhiều khí tài của địch.
Đêm 30 rạng ngày 31/1/1968, theo lệnh Tổng tiến công, Tiểu đoàn 16 của Nguyễn Công Mẹo sau 3 đêm hành quân thần tốc từ Long An và nhiều vòng kiểm soát của địch để tấn công vào sân bay Tân Sơn Nhất. Đại đội 1 của anh là mũi chủ công đã gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của lính Mỹ trong 1 lô cốt, anh đã chỉ huy đại đội đánh sập chiếc lô cốt, diệt gọn tiểu đội lính Mỹ, đưa đơn vị thọc sâu vào sân bay, bắn cháy 2 nhà vòm chứa máy bay, 7 xe quân sự, trong đó có 4 xe tăng. Ngày 1/2/1968, lúc này trời đã sáng, lính Mỹ điều xe tăng M41 ra phản kích mãnh liệt. Quân ta thương vong nhiều, đạn bắn cạn dần. Trong khi trực tiếp dùng AK của một đồng đội đã hy sinh để bắn trả các đợt phản kích, anh Mẹo vẫn ra lệnh cho 1 chiến sĩ chiếm khẩu 12 ly 7 trên chiếc M41 bắn mạnh về phía địch.
Lúc này, trực thăng chiến đấu của địch phát hiện ra đội hình của ta và trút xối xả những làn đại liên xuống. Đại đội 1 của Nguyễn Công Mẹo hy sinh gần hết. Những chiến sĩ hết đạn nhưng còn sức đều cướp súng địch, dùng cả báng súng rồi lưỡi lê đánh trả địch. Chính trị viên phó Nguyễn Công Mẹo và chiến sĩ trên chiếc xe tăng M41 đã hy sinh ở tư thế đang đứng bắn, súng vẫn kẹp trong tay. Một số tên lĩnh Mỹ phản kích quá gần khi thấy cả hai ngươi giơ súng vội giơ tay hàng, sau không thấy bắn bèn tiến lại mới biết cả hai chiến sĩ đã hy sinh… Cho đến cuối giờ chiều ngày hôm đó, những chiến sĩ còn lại của Đại đội 1 được lệnh rút ra ngoài.
***
Khi “Hai Lúa” Nguyễn Công Mẹo còn đang bận rộn với việc đồng áng thì cách quê anh hàng trăm cây số, có một thanh niên kém anh cỡ nửa giáp có cái tên Ca Lê Hiến đang bận rộn chuẩn bị cho chuyến trở lại quê hương xứ dừa Bến Tre, để lại sau lưng tất cả những gì tốt nhất lúc đó có thể có được mà miền Bắc xã hội chủ nghĩa dành cho anh. Chưa đầy 30 tuổi nhưng những bài thơ của Ca Lê Hiến khi ấy luôn nằm trong phút giây được đón chờ nhất của tiết mục tiếng thơ mỗi đêm Chủ nhật trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Thơ của anh da diết đến nao lòng: “Quê nội ơi mấy năm trời xa cách / Đêm nay ta nằm nghe mưa rơi / Nghe tiếng gầm trời xa lắc / Cớ sao lòng thấy nhớ thương”.
Và cũng như Nguyễn Công Mẹo, ước mơ cháy bỏng trở về quê chiến đấu của Ca Lê Hiến đã được thỏa nguyện. Nhà thơ trẻ tài năng lúc này đã thành chiến sĩ với khát khao cháy lửa không gì cản nổi với cái tên mới Lê Anh Xuân. Chỉ một cái bút danh thôi mà gói ghém, chất chứa bao nhiêu tâm sự, bao nhiêu nỗi niềm riêng chung đã và sẽ gửi vào đó. Lê - chữ lót tên mình, Anh- chữ đệm của nhà văn Anh Đức (Bùi Đức Ái), người mà anh rồi sẽ gọi là anh vợ và Xuân- tên đệm của Bùi Xuân Lan, người con gái anh đã nắn nót ghi trong lý lịch là “người vợ sắp cưới”.
Lịch sử có những phút giây hội tụ ngẫu nhiên mà kỳ lạ vô cùng giữa những con người chẳng hề quen biết nhau để rồi chính họ sẽ làm nên lịch sử mới. Khi đơn vị của chính trị viên phó Nguyễn Công Mẹo đang chuẩn bị cho trận đánh thọc sâu vào phi trường Tân Sơn Nhất, cách đó vài cây số, nằm trong Bộ chỉ huy tiền phương của phân khu II Long An, nhà thơ Lê Anh Xuân cũng đang nóng lòng cho những dòng thơ mà anh tự hứa phải có trong những ngày Tổng tiên công. Ai, người nào, trận đánh ở đâu sẽ vào thơ anh? Những câu hỏi ấy cứ xoáy sâu trong tâm can anh. Với anh những câu hỏi ấy còn chưa có câu trả lời nhưng có điều đã rõ ràng: Bài thơ hay nhất là bài thơ sẽ viết.
Ít bữa sau trận đánh bi hùng tại sân bay Tân Sơn Nhất, những người đồng đội của Nguyễn Công Mẹo có dịp kể lại hình tượng cùng phút giây hy sinh vô cùng dũng cảm của anh Mẹo và đồng đội. Ngồi cách người kể chuyện không xa, Lê Anh Xuân chợt như thấy trong huyết quản cháy rần rật. Đó chính cái anh khao khát đợi chờ sâu thẳm trong tâm can. Bài thơ không hẹn, không gì ngăn cản nổi đã đến:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công…”
Bình tĩnh lại, Lê Anh Xuân đưa nhịp thơ trở lại phong cách quen thuộc của anh:
“Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước”
Chọn câu gì kết đây? Anh lặng đi trong giây lát.., đây rồi:
“Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”
Lê Anh Xuân chưa bao giờ gặp Nguyễn Công Mẹo. Anh cũng không có may mắn được nhìn thấy bài thơ của mình lên báo cũng như đi xa cùng làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Hai tháng sau đó, anh hy sinh trong một trận đánh đợt sau của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân. Nhà văn Anh Đức - người anh vợ như anh vẫn gọi - đã đổi tên bài thơ của anh từ “Anh giải phóng quân” thành “Dáng đứng Việt Nam”. Lê Anh Xuân cùng người chiến sĩ “không một tấm hình, không dòng địa chỉ” trong bài thơ mà chúng ta giờ đây đã biết - Nguyễn Công Mẹo đã hóa thân thành mùa xuân đất nước.