Hạ tầng TP. Hồ Chí Minh đang quá tải bởi hệ thống cảng đầu mối trung chuyển hàng hóa NXK từ nhiều tỉnh thành lân cận |
Hạ tầng logistics còn nhiều bất cập
Ông Đào Trọng Khoa, Phó Chủ tịch Hiệp hội DN dịch vụ logistics Việt Nam cho biết: Ngành logistics Việt Nam cũng đang trên đà phát triển khá nhanh với tốc độ tăng trưởng từ 15-16%/năm và đóng góp khoảng 3% vào GDP của cả nước. Tuy nhiên, chi phí logistics tại Việt Nam còn cao so với nhiều quốc gia khác trong khu vực và thế giới (tương đương với 20% giá trị GDP của cả nước) do chi phí vận tải hàng hóa bằng đường bộ quá cao, phụ phí cao tại cảng biển mà chủ tàu nước ngoài thu của chủ hàng Việt Nam. Thêm vào đó chất lượng dịch vụ chưa ổn định, trình độ quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin và chất lượng nhân lực trong ngành còn hạn chế...
Đánh giá về thực trạng và bất cập về dịch vụ logistics tại TP. Hồ Chí Minh tác động đến DN xuất nhập khẩu, bà Phạm Thị Bích Vân, Phó Giám đốc tiếp thị, Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn cho rằng, tại khu vực TP. Hồ Chí Minh hiện có 11 cảng làm hàng container và hàng rời, với tổng diện tích trên 310ha và trên 7.000m cầu tàu, trên 150m2 kho trong cảng. Sản lượng các cảng tại khu vực thành phố năm 2017 đạt khoảng gần 6 triệu TEU, tăng 5,5% so với năm 2016. Tại TP. Hồ Chí Minh cũng có 6 ICD, với tổng diện tích 86 và trên 3.200m2 cầu tàu, trên 91.000m2 kho hàng. Các ICD đóng vai trò là hậu phương cho cảng Cái Mép trong bối cảnh hàng tại cảng Cái Mép tăng lên mức trên 22% trong năm 2017. Hiện nay, hàng kẹt ở Cái Mép khá lớn, vì 85% hàng về Cái Mép được chuyển sà lan về TP. Hồ Chí Minh. Với sản lượng lớn như vậy, nên khu vực giao thông quanh các ICD là khu vực xa lộ Hà Nội (TP. Hồ Chí Minh) là điểm giao với các ICD thường xuyên xảy ra kẹt xe nghiêm trọng.
Các cơ sở hậu cần logistics chủ yếu tập trung tại khu vực quanh cảng Cát Lái, ICD khu vực Thủ Đức, khu vực Sóng Thần (Bình Dương) và khu vực lân cận cầu Đồng Nai. Việc tập trung này gây áp lực lớn lên hệ thống giao thông, gây tắc đường, xe quay vòng chậm, tăng chi phí cho DN sử dụng dịch vụ...
Tình trạng cảng và dịch vụ logistics ở một số tỉnh lân cận cũng có những bất cập. Tại Bình Dương, các DN phát triển rất mạnh, hàng hóa XNK lớn, nhưng cảng lại rất ít, hàng hóa của DN chủ yếu đổ về các ICD và cảng TP. Hồ Chí Minh. Hiện Bình Dương có 3 cảng, trong đó chỉ có cảng Bình Dương có khả năng tiếp nhận tàu 5.000 tấn, công suất cũng đạt đến 70-75%, hai cảng còn lại chỉ có khả năng tiếp nhận sà lan 2.000 tấn... Điều này càng gây áp lực trung chuyển hàng hóa lên các cảng khu vực TP. Hồ Chí Minh.
Giải pháp liên kết để phát triển
Tại hội thảo, nhiều DN cũng cho biết họ gặp quá nhiều khó khăn trong việc sử dụng dịch vụ logistics như chi phí cao, chi phí vận tải quốc tế phụ thuộc vào các hãng vận tải nước ngoài và do các hãng này chi phối, hàng kiểm tra chuyên ngành làm rất lâu, khiến DN tốn rất nhiều thời gian và chi phí...
Thực tế cũng cho thấy, phát triển dịch vụ logistics nhanh nhưng lại thiếu liên kết. Trong khi đó, bản chất của logistics là phải phát triển theo chuỗi. Theo bà Phạm Thị Bích Vân, TP. Hồ Chí Minh và các địa phương vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và khu vực đồng bằng sông Cửu Long cần có chương trình hành động chung trong việc xây dựng các trung tâm logistics và kho phân phối tập trung của vùng; khuyến khích các cảng mở rộng dịch vụ logistics trọn gói như điểm nối dài của cảng tới các địa phương…
Việc cắt giảm chi phí logistics, nhiều DN cho rằng, nhà nước cần cắt giảm chi phí chính thức và minh bạch hóa phí BOT, xóa bỏ các chi phí ngầm trong vận tải đường bộ. Đồng thời tiến hành cơ cấu lại vận tải, nâng cao khả năng vận chuyển hàng hóa của các phương thức giá rẻ như đường thủy, đường sắt… Song song đó, các hiệp hội chủ hàng cần đấu tranh với các hãng tàu nước ngoài để loại bỏ hiện tượng áp đặt các loại phụ phí cảng biển bất hợp lý nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh công bằng cho hàng hóa Việt Nam ở thị trường nước ngoài.
Từ phía các DN logistics cần chủ động ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, vận hành, đào tạo chuỗi cung ứng logistics, tích hợp các dịch vụ logistics với các ngành sản xuất, xuất nhập khẩu để nâng cao năng lực quản trị và chất lượng dịch vụ. Các DN nhỏ phải tăng cường liên kết để tận dụng tốt mọi nguồn lực, thế mạnh của từng DN vào đầu tư phát triển dịch vụ logistics trọn gói mới có thể cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ. Ngoài ra, cần phải có một tổ chức cấp nhà nước quản lý, chỉ đạo thống nhất các hoạt động của ngành logistics phục vụ thương mại trong cả nước, đồng thời nâng cao năng lực kết nối hệ thống cơ sở hạ tầng…