Thưa ông, công tác xây dựng hệ thống TC của Việt Nam đến nay đã đạt được những kết quả như thế nào?
Hệ thống TC của Việt Nam có 2 cấp (cơ sở và quốc gia) với số hiệu là TCVN và đến nay, Việt Nam đã xây dựng được trên 9.500 TCVN với độ phủ rộng trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội với các ngành nghề khác nhau; là cơ sở vững chắc phục vụ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện hơn 9.500 TCVN có 47% bảo đảm hài hòa TC quốc tế và khu vực, đây là chỉ tiêu rất quan trọng, qua đó có thể đánh giá được trình độ sản xuất của các doanh nghiệp (DN) Việt Nam.
Chúng ta đã tạo nên hệ thống TC cơ sở là những TC của DN công bố áp dụng cho các sản phẩm hàng hóa, hoạt động sản xuất, kinh doanh. TC cơ sở có thể do DN xây dựng, cũng có thể DN chấp nhận TC quốc gia hay quốc tế. Nếu thiếu những TC này, hoạt động sản xuất, kinh doanh, giao thương sẽ bị ảnh hưởng.
Vậy đối với hoạt động của DN các TC có vai trò như thế nào, thưa ông?
TC tạo thuận lợi cho quá trình phát triển, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là một ví dụ. Năm 2015, chúng ta có TC mang số hiệu TCVN ISO 9001:2015 về hệ thống quản lý chất lượng quốc tế. Tiêu chuẩn này nếu thiếu thì không thể tạo dựng được hàng nghìn tổ chức, DN có hệ thống chất lượng đạt chuẩn và giúp cho quá trình sản xuất hàng hóa ổn định, bảo đảm chất lượng đầu ra, đáp ứng được những tiêu chí khắt khe trong quá trình thương mại.
Nhưng nhiều TC chưa thực sự trở thành công cụ đắc lực cho DN, theo ông nguyên nhân do đâu?
Chúng tôi đã đánh giá trên 9.500 TCVN cùng trên 850 QCVN đã được các bộ, ngành ban hành. Con số này khá đồ sộ và nằm trong nhóm trên của các nước ASEAN. Tuy nhiên, công tác phổ biến TC còn dựa nhiều vào các cơ quan nhà nước. Thêm vào đó, quá trình xây dựng hệ thống TC về cơ bản phát triển theo mô hình từ trên xuống, nghĩa là, nhà nước xác định mũi nhọn hoặc những lĩnh vực cần phát triển kinh tế, sau đó tổ chức xây dựng các TC. Quá trình xây dựng thiếu sự tham gia trực tiếp của các hiệp hội ngành nghề và các DN dẫn đến nhiều TC, QC không phù hợp với nhu cầu.
Nếu DN trực tiếp tham gia trong quá trình xây dựng sẽ bảo đảm các TC phù hợp với mặt bằng chung của thế giới và nhu cầu của DN. Tuy nhiên, nhiều DN vẫn có tâm lý ngồi đợi nhà nước xây dựng và ban hành TC để sử dụng. Nhiều TC công đoạn nối giữa cơ sở chưa tốt nên có thể quá cao, mặc dù chúng ta đã kết nối với quốc tế nhưng do trình độ công nghệ, sản xuất của họ cao hơn nên vô hình trở thành rào cản cho chính DN trong nước, có những trường hợp do TC thấp không đáp ứng được yêu cầu phát triển…
Trước những hạn chế trên, thời gian tới, chúng tôi sẽ đẩy mạnh sự tham gia của các hiệp hội ngành hàng và DN trong xây dựng TC. Có như vậy, TC mới tiếp cận được cả hai phía, dựa trên những mũi nhọn và xuất phát từ thực tiễn của DN trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Xin cảm ơn ông!