Sự cố vỡ đập Thủy điện Ia Krel 2 gây thiệt hại không nhỏ |
Những tồn tại
Theo TS. Phạm Thị Thu Hà - Trường Đại học Bách khoa Hà Nội - việc phát triển thủy điện không hợp lý cũng gây những tác động tiêu cực đến nguồn tài nguyên, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Dải đất miền Trung vốn nhỏ hẹp, địa hình hiểm trở, đất đai canh tác ít và hầu như năm nào cũng gánh chịu thiên tai như bão lũ, nắng hạn. Người dân vùng hạ lưu vốn đã nghèo lại thêm nỗi lo từ khi có các thủy điện. Vì sao?
Kể từ cuối năm 2009 đến nay, nhiều thủy điện ở khu vực miền Trung đã xảy ra sự cố. Điển hình như cuối tháng 9/2009, quy trình vận hành hồ thủy điện A Vương không hợp lý dẫn đến việc xả lũ ồ ạt gây nên trận lũ lớn tại Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Hay công trình thủy điện Sông Tranh 2 do yếu tố động đất liên tục khu vực lòng hồ đã gây rò rỉ nứt trên thân đập, dù đã được xử lý nhưng người dân chưa thể an tâm. Dư luận cũng không quên 3 sự cố vỡ đập thủy điện Đăk Krông 3 (Quảng Trị), Đăk Mêk 3 (Kon Tum) và Ia Krel 2 (Gia Lai) trong vòng chưa đầy 9 tháng (từ tháng 10/2012 - 6/2013)… Đến cuối năm 2016, mưa lớn ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên đã gây ngập lụt trên diện rộng. Dù đã có chuẩn bị từ trước như hạ bớt nước hồ qua tràn, tăng cường phát điện nhưng do lượng nước thượng nguồn về các hồ thủy điện quá lớn, để bảo đảm an toàn cho hồ đập và công trình, hơn hàng chục nhà máy thủy điện, hồ thủy lợi đồng loạt xin xả lũ từ vài trăm m3/s đến trên 4.000 m3/s, thậm chí có hồ xả tới trên 7.000 m3/s.
Trước khi xả lũ, các thủy điện đều thực hiện theo đúng quy trình vận hành liên hồ/đơn hồ, đặc biệt đã thông báo bằng nhiều hình thức cho chính quyền, các cơ quan, ban, ngành và nhân dân địa phương hạ lưu chủ động tăng cường các biện pháp phòng tránh, giảm bớt thiệt hại về tài sản và tính mạng. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, lượng nước xả đồng loạt từ các hồ thủy điện cũng góp phần tăng thêm lượng nước ở hạ du khiến nhiều xã bị cô lập, giao thông chia cắt.
Cũng trong năm 2015-2016, do ảnh hưởng của Elnino và biến đổi khí hậu, khu vực miền Trung - Tây Nguyên, Nam Trung bộ bị hạn hán nặng. Hồ thủy điện thiếu nước, các dòng sông cạn kiệt khiến nhiều cánh đồng bị bỏ hoang, gia súc chết dần, người dân nhiều nơi phải chật vật mua từng can nước để duy trì cuộc sống.
Đâu là nguyên nhân?
Việc đầu tư xây dựng các thủy điện đều có tính hai mặt, chúng ta cũng cần phản ánh đúng, khách quan, trung thực nhưng thận trọng trên những lợi ích chung của đất nước và cộng đồng xã hội; thẳng thắn nhìn nhận những tồn tại để có biện pháp xử lý, khắc phục nhằm quản lý thủy điện tốt hơn, phát huy những thế mạnh và hạn chế thấp nhất các thiệt hại trong tương lai.
Nguyên nhân dẫn đến các sự cố từ thủy điện, không thể không nói đến công tác quản lý nhà nước từ quá trình quy hoạch, cấp phép, kiểm tra, giám sát các nhà máy thủy điện, nhất là các thủy điện nhỏ.
Trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006 - 2015, có xét đến năm 2025 (Quy hoạch điện VI) ghi rõ, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với mức tăng GDP khoảng 8,5% - 9%/năm giai đoạn 2006 - 2010 và cao hơn, dự báo nhu cầu điện nước ta tăng ở mức 17% năm (phương án cơ sở), 20% năm (phương án cao) trong giai đoạn 2006 - 2015, trong đó xác định phương án cao là phương án điều hành, chuẩn bị phương án 22% năm cho trường hợp tăng trưởng đột biến... vì vậy cần phát triển nguồn điện đáp ứng nhu cầu phụ tải cao, trong đó có thủy điện, thủy điện nhỏ, năng lượng mới và tái tạo cho các vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo...
Từ năm 2006 trở về trước, Chính phủ phê duyệt hệ thống bậc thang trên các sông, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) phê duyệt quy hoạch dự án riêng lẻ, nhưng từ năm 2006 trở lại đây theo phân cấp, tất cả các quy hoạch thủy điện nhỏ giao địa phương phê duyệt. Sự phân cấp này được khẳng định lại tại Thông tư 43/2012/TT-BCT của Bộ Công Thương ngày 27/12/2012.
Nhiều chuyên gia cho rằng, chủ trương khuyến khích phát triển nguồn điện; sự phân cấp trong quy hoạch cấp phép cùng mong muốn của địa phương là tăng thêm giá trị sản xuất công nghiệp, nguồn thu ngân sách... đặc biệt là có cả những toan tính lợi ích từ doanh nghiệp dẫn đến tình trạng “nhà nhà làm thủy điện”, công tác phê duyệt, quản lý chất lượng, quy trình vận hành... có phần lơ là, buông lỏng, mặc dù các quy định về quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng dự án thủy điện và vận hành khai thác công trình thủy điện đã khá chi tiết từ trách nhiệm, các yêu cầu về điều tra khảo sát, đánh giá đầy đủ từ điều kiện tự nhiên - môi trường, dân sinh đến hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường.
Qua kiểm tra của Bộ Công Thương và các cơ quan chức năng cho thấy, năng lực quản lý chuyên môn của các địa phương còn hạn chế, thiếu trách nhiệm; nhiều chủ đầu tư dự án thủy điện không đủ năng lực, thiếu kinh nghiệm hoặc không chấp hành các quy định của pháp luật từ khảo sát thiết kế, thi công đến quản lý vận hành... |
Kỳ III: Tương lai nào cho thủy điện?
TIN LIÊN QUAN | |
Thủy điện Việt Nam: Quá khứ - Hiện tại và Tương lai - Kỳ 1: Vai trò và sứ mệnh |