Câu chuyện của Giàng A Dạy là một minh chứng cho thấy, biết ứng dụng khoa học công nghệ, năng suất cây trồng sẽ không còn phải chịu tác động quá nhiều bởi các yếu tố môi trường.
Nhờ ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt và màng phủ nylon, năng suất - chất lượng rau màu ở Mộc Châu (Sơn La) tăng rõ rệt |
Khó cũng phải làm!
Tham gia công việc nương rẫy cùng gia đình từ nhỏ nên anh Giàng A Dạy rất thuộc đồng đất quê mình - nơi mà mỗi năm chỉ có thể canh tác được 8 tháng, 4 tháng còn lại đành bỏ không vì khô hạn. Những tháng canh tác được, năng suất ngô, lúa và rau màu cũng không cao… Chính vì vậy, khi sang học tập và làm việc tại Israel, anh Dạy rất ngạc nhiên vì thời tiết Israel khô hạn nhưng vẫn với diện tích đất đó, người nông dân Israel thu được năng suất cao gấp nhiều lần - đưa Israel trở thành một trong số ít những nước có nền nông nghiệp mạnh nhất thế giới.
Những tháng ngày làm việc ở Israel đã giúp anh Dạy có những thay đổi lớn trong suy nghĩ về việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Trở về bản Rừng Thông, xã Mường Bon, anh Dạy bắt tay ngay vào việc đầu tư mua máy bơm, ống dẫn nước và lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt. Sau đó không lâu, khi bản Rừng Thông quê hương anh bắt đầu những tháng mùa khô khắc nghiệt (tháng 11 - 12/2016), cũng là lúc các loại rau su hào, súp lơ, bắp cải, cải thảo, hành mùi, cà chua… do anh Dạy ươm, trồng lên xanh mơn mởn ngay giữa những nương đồi đang khô hạn, úa vàng xung quanh. Lần đầu tiên người dân bản Rừng Thông có thể mua rau tại bản ngay đúng dịp Tết Nguyên đán…
Không chỉ trồng được rau giữa thời điểm khô hạn, anh Dạy còn tự tin khẳng định, với nguồn nước hiện có quanh bản Rừng Thông, nếu áp dụng phương pháp tưới nhỏ giọt, bà con trong bản có thể trồng được 2 - 3 vụ ngô/năm, chứ không chỉ 1 vụ ngô như hiện nay. Bên cạnh đó, những quả đồi trọc hiện tại, bà con có thể trồng cỏ voi để nuôi trâu, bò lấy thịt…
Câu chuyện của anh Dạy là một ví dụ cho thấy, sản xuất nông nghiệp còn gian nan, nhà nông “một nắng hai sương” vẫn nghèo là bởi người nông dân vẫn phụ thuộc quá nhiều vào môi trường; vào những điều kiện ngoại cảnh như: nhiệt độ, độ ẩm và sâu bệnh... Chính vì vậy, giúp người nông dân thay đổi cách nghĩ, cách làm trong ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp là việc cần làm tích cực và quyết liệt, khó cũng phải làm. Nhất là khi biến đổi khí hậu đang tác động từng ngày, ảnh hưởng đến cả những địa phương vùng cao vốn từng được thiên nhiên ưu đãi nhất.
Cần có công nghệ phù hợp với đặc thù vùng miền
Ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp thực tế đã mang lại hiệu quả rõ rệt cho nhiều địa phương, trong đó có nhiều tỉnh miền núi như: Tuyên Quang, Bắc Kạn, Sơn La, Lào Cai…; góp phần đưa các giống cây, con (mía, cam, bơ, xoài, chè, lợn, gà) nâng cao năng suất, chất lượng, đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa và thị hiếu của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, cũng tại những địa phương này đến nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Đó là, nhiều người rất giỏi về khoa học công nghệ nhưng lại không hiểu biết nhiều về nông nghiệp; người nông dân, nhất là đồng bào DTTS cả đời gắn với nông nghiệp lại rất ít người biết về khoa học công nghệ. Tình trạng này dẫn đến việc đưa khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn là chuyển giao ứng dụng mà chưa có cơ chế, chính sách duy trì, nhân rộng các kết quả nghiên cứu. Sau khi các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực nông nghiệp kết thúc, cán bộ chuyển giao công nghệ rút đi, người nông dân lại ngơ ngác không biết tiếp tục như thế nào trên đồng đất quê mình! Hay như việc ứng dụng sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGap, GlobalGap không phải hộ nông dân nào cũng đủ chi phí để tuân thủ các quy trình. Thậm chí với nhiều đồng bào DTTS không biết đọc, biết việc… việc phải ghi thông tin về nhật ký đồng ruộng hàng ngày cũng là khó khăn không nhỏ.
Do đó, để việc ứng dụng khoa học vào sản xuất nông nghiệp ở vùng miền núi đạt hiệu quả cao hơn, nhiều chuyên gia cho rằng: Rất cần những sản phẩm công nghệ do người Việt nghiên cứu để ứng dụng phù hợp cho những địa phương vùng cao có những yếu tố đặc thù. Đồng thời, đơn giản hóa sản phẩm để người nông dân, nhất là đồng bào DTTS dễ sử dụng. Khi đồng bào thấy công nghệ đơn giản, dễ sử dụng, năng suất cao, chất lượng tốt thì đồng bào sẽ đua nhau làm theo… Có như vậy, khoa học công nghệ mới thực sự là đòn bẩy để sản xuất nông nghiệp vùng cao có cơ hội “cất cánh”.