GVCs tạo ra nhiều cơ hội mới cho các nước đang phát triển, làm gia tăng sự tham gia của các nước này trên thị trường toàn cầu và đa dạng hóa xuất khẩu. Tuy nhiên, trong khi GVCs giúp nhiều nước đang phát triển tiến bước vượt bậc, một số nước hưởng lợi nhiều hơn nước khác, thì một số nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nhân ở các nền kinh tế phát triển và đang phát triển lại đang tụt lại phía sau. Báo cáo phân tích dữ liệu mới nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách và các bên liên quan hiểu thêm về tính phức tạp gia tăng của thương mại toàn cầu và xem xét các chính sách có thể làm cho GVCs trở nên toàn diện hơn.
Các chuỗi giá trị toàn cầu góp phần gia tăng năng suất, tăng trưởng nhanh hơn và mang lại lợi ích cho toàn thể người dân. Báo cáo cũng chỉ ra rằng các nước có thể tối đa hóa lợi ích của GVCs bằng cách chuyển sang các hoạt động có giá trị gia tăng cao hơn, giảm chi phí thương mại và làm cho GVCs toàn diện hơn. Báo cáo cho thấy nhiều nhân tố xác định một quốc gia tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu như thế nào. Chi phí thương mại phi thuế quan như cước phí, bảo hiểm, quy định, thủ tục hành chính hoặc các kết nối giao thông vận tải đều rất quan trọng vào sự tham gia chuỗi. Theo Báo cáo, trong một số chuỗi giá trị phức tạp như động cơ xe máy, máy tính hoặc máy móc, chi phí thương mại phi thuế quan cao hơn 4 lần so với thuế quan. Do vậy, việc giải quyết các chi phí thương mại này là điều kiện then chốt để cải thiện khả năng tham gia các chuỗi và tối đa hóa lợi ích. Trong bối cảnh đó, các hiệp định thương mại đa phương giữ một vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí thương mại và đảm bảo rằng tất cả các nền kinh tế, nhất là những nước nghèo, có thể hưởng lợi từ giảm chi phí thương mại. Các hiệp định thương mại ưu đãi (PTA) cũng có thể rất hữu ích vì thường mang lại những cam kết sâu hơn trong những lĩnh vực cụ thể.
Cũng theo Báo cáo trên, 3 trung tâm sản xuất chính của thế giới hiện nay là Hoa Kỳ, Châu Á và Châu Âu có vị trí đặc biệt quan trọng, nơi hội tụ các đối tác thương mại của một quốc gia, tập trung các thị trường có thu nhập cao và cho thấy mức độ mà các đối tác được hội nhập trong các chuỗi giá trị toàn cầu khu vực.
Qua phân tích cơ cấu doanh thu xuất khẩu và hiệu quả hàng hoá sản xuất tại Việt Nam tham gia mạng sản xuất và phân phối giá trị toàn cầu trong những năm gần đây thì kết quả còn ở mức khiêm tốn. Nhiều mặt hàng có kỹ thuật – công nghệ tiên tiến, bí quyết và nguyên liệu độc quyền, giá trị gia tăng cao phần lợi ích lớn vẫn chưa thuộc về chúng ta. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI chiếm trên 60% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, trong đó rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài quản lý chặt chẽ từ khâu đưa nguyên liệu, linh kiện vào và nắm toàn bộ sản phẩm xuất khẩu ra thị trường thế giới, chúng ta chỉ được hưởng khâu gia công. Hầu hết kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện đều thuộc về hai doanh nghiệp FDI hàng đầu là Samsung và Intel, nhưng linh kiện lại chủ yếu nhập khẩu từ các nhà máy của hai tập đoàn này đầu tư tại Trung Quốc. Tuy “lập kỷ lục” về xuất khẩu điện thoại, nhưng chúng ta chỉ hưởng phần gia công, lắp ráp trong chuỗi giá trị to lớn đó.
Thực tế nêu trên cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu nhưng còn đang trong giai đoạn gia công hoặc nhập nguyên liệu, linh kiện về lắp ráp nhằm tận dụng nhân công giá rẻ. Đây là giai đoạn có giá trị thấp nhất. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực hơn để phát huy những lợi thế của mình, tham gia vào những giai đoạn có hàm lượng chất xám cao, nhằm đạt giá trị lớn hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.
“Chuỗi giá trị toàn cầu” bắt nguồn từ khái niệm “Value chain – chuỗi giá trị” do Michael Porter khởi xướng vào thập kỷ 90 của thế kỷ 20. Theo ông, “chuỗi giá trị là một tập hợp các hoạt động để đưa một sản phẩm từ khái niệm đến khi đưa vào sử dụng và cả sau đó. Chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động như thiết kế mẫu mã, sản xuất, marketing, phân phối và dịch vụ sau khi bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Những hoạt động này có thể được thực hiện trong phạm vi một doanh nghiệp hoặc được phân phối giữa các doanh nghiệp khác nhau”. Chuỗi giá trị này có thể được thực hiện trong phạm vi một khu vực địa lý hoặc trải rộng trong phạm vi nhiều quốc gia và trở thành chuỗi giá trị toàn cầu – Global value chain.” |