Ông Lâm Văn Bảng bên mô hình chứng tích nhà tù Phú Quốc
Từ hơn 4 năm, 8 tháng bị giam cầm tại nhà tù Phú Quốc…
Cách trung tâm thành phố Hà Nội hơn 30 km, thôn Nam Quất, xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên yên ả như bao miền quê khác, không nhiều người biết rằng, nơi đây có những người cựu chiến binh với tấm lòng nặng tình đồng đội với một bảo tàng tư nhân độc nhất, vô nhị.
Trong một góc sân nhỏ của bảo tàng, bên chén trà thơm, ông Lâm Văn Bảng chậm rãi kể: ông sinh năm 1943 trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Nam Quất. Hết lớp 7, ông đi làm công nhân, sau đó vào quân đội. Cuối năm 1965 là quân số thuộc Trung đoàn 52, Sư đoàn 320, sau được biên chế vào Đại đội 16, Trung đoàn 1, Sư đoàn 9.
Chiến dịch Mậu Thân 1968, ông Bảng tham gia tiến công đợt 1 ở Sài Gòn. Trong một trận chiến đấu ác liệt, ông bị thương gãy chân và tay, dù đã nấp dưới hố bom nhưng ông vẫn bị địch phát hiện. Chúng bắt và giam ông ở Biên Hòa (Đồng Nai), sau đó chuyển ra giam tại nhà tù Phú Quốc đúng 4 năm 8 tháng 7 ngày. Năm 1973, ông Bảng cùng nhiều đồng đội được trao trả theo Hiệp định Paris.
Ông Bảng tự mình sắp xếp, trưng bày những hiện vật sưu tầm được
“Cũng như những đồng đội khác, trong suốt những ngày bị giam cầm ở nhà tù Phú Quốc, tôi đã nếm trọn mọi thủ đoạn tra tấn dã man nhất của bọn cai ngục. Nào dội nước sôi vào miệng, nhốt trong “chuồng cọp” hay cặp điện vào tai, lấy kìm nhổ móng tay, móng chân, bể răng, đóng đinh vào đầu gối…” - Người thương bình già nhớ lại và khẳng khái: “Chính những khổ đau, đầy ải ấy đã trở thành động lực, nuôi dưỡng ý chí cách mạng trong tôi và các đồng chí, đồng đội để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng”.
… đến hành trình sưởi ấm những linh hồn đồng đội
Chiến tranh đã lùi xa, đất nước thống nhất, cuộc sống yên bình nhưng chưa khi nào ông Bảng quên những ngày tù đầy đau khổ, chưa khi nào quên những đồng đội, đồng chí đã ngã xuống đầy thương tâm.
“Những khi đau ốm, khi vết thương hành hạ, những hình ảnh về những bạn tù, những cảnh chết chóc bi thảm lại ùa về” – ông Bảng nói và cho biết, đó chính là lý do ông nảy ra ý định đi sưu tầm những kỷ vật về các đồng đội trong những tháng ngày nghiệt ngã tại nhà tù Phú Quốc.
Năm 1985, được sự động viên của nguyên Phó Cục trưởng Cục Dân vận - Bộ Quốc phòng đại tá Tô Diệu và Ban Liên lạc tù binh Việt Nam, ông Lâm Văn Bảng bắt đầu hành trình bôn ba khắp các nhà tù, chiến trường trong cả nước để sưu tầm hiện vật cho bảo tàng nhỏ bé của mình, những mong an ủi và tri ân những đồng chí, đồng đội đã ngã xuống.
Ông Kiều Văn Uỵch trong vai trò thuyết minh viên
Với khoản tiền lương hưu và trợ cấp ít ỏi, một mình ông cứ âm thầm rong ruổi khắp Bắc, Trung, Nam tìm kiếm, gói gém những kỷ vật mang về. Chưa có chỗ cất, cái gác xép nhỏ ở nhà ông trở thành kho lưu trữ. Mãi đến năm 2003, sau khi nghỉ hưu ông mới lập phòng truyền thống.
Theo thời gian, cùng những chuyến đi, những kỷ vật được ông sưu tập hoặc được đồng đội gửi về ngày càng nhiều. Vì vậy, sau khi bàn với vợ, con, ông đã dành toàn bộ hơn 2.000 m2 đất hương hỏa của tổ tiên để lập bảo tàng. Đến tháng 10/2006, bảo tàng được UBND tỉnh Hà Tây (cũ) quyết định thành lập và công nhận với Giám đốc Lâm Văn Bảng, Phó Giám đốc Kiều Văn Uỵch, cũng là một đồng đội tù Phú Quốc - cùng một số người tình nguyện tham gia làm công tác thuyết minh, vệ sinh với phương châm 4 “tự” (tự nguyện - tự túc - tự quản - tự chịu trách nhiệm) và làm việc không lương.
Hiện nay, bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày đã có trên 4.000 hiện vật, chia thành hơn chục phòng trưng bày, gồm: Các khu Đền thờ Bác Hồ cùng các liệt sĩ đã hy sinh ở nhà tù Phú Quốc và các chiến trường; khu lưu giữ bút tích của Bác Hồ; khu lưu giữ vật dụng và nhiều bức ảnh tư liệu về chiến tranh chống Mỹ; khu trưng bày hình ảnh, mô hình về các thủ đoạn tra tấn và chứng tích về tội ác của Mỹ - ngụy; khu giới thiệu tấm gương kiên trung của chiến sĩ cách mạng và hoạt động của những đảng viên trong nhà tù Phú Quốc; thư viện...
Cần lắm sự chung tay!
“Ban đầu bảo tàng này chỉ là cái phòng trưng bày của cá nhân tôi, nhưng giờ đã trở thành bảo tàng được chính quyền công nhận. Mỗi năm có cả vạn khách đến tham quan (bảo tàng không thu vé vào cửa - PV), rồi các hoạt động dâng hương, các khóa học truyền thống… nên bảo tàng giờ đã…quá tải” – ông Lâm Văn Bảng tâm tư. Ông chia sẻ, các công trình, phòng ốc trưng bày vốn đã hẹp lại đang xuống cấp, trong khi hiện vật ngày một nhiều, nên bảo tàng ngày một chật chội nên ông lo lắng lắm.
Mô hình chiến sỹ tù bị bắt cởi trần lộn trên vỉ sắt
Không những thế, trong hơn chục người tình nguyện làm việc tại bảo tàng đều không có nghiệp vụ chuyên môn nên từ việc sưu tầm, bày biện, bảo quản đến tiếp đón khách đều “nghĩ sao làm vậy”, trong khi: “Chúng tôi có những hiện vật có một không hai” – ông Bảng nói và mong muốn, địa phương, nhất là Phòng Văn hóa –Thông tin huyện hỗ trợ nhiều hơn cho bảo tàng trong công tác chuyên môn.
Còn qua chị Vũ Thị Huân – một tình nguyên viên làm việc tại bảo tàng - tôi được biết, túc trực hàng ngày tại bảo tàng là 15 cựu chiến binh và một số tình nguyên viên là người địa phương. Họ đảm nhận mọi công việc từ dọn vệ sinh, trông xe, xây, sửa… và kiêm luôn vai trò thuyết minh viên cho khách tham quan. Có những người đã ngoài 80 tuổi nhưng hàng ngày vẫn đạp xe hàng chục cây số đến bảo tàng vừa để góp sức với tập thể, cũng là để thắp nén nhang cho đồng đội.
Và cảnh chiến sỹ tù Phú Quốc bị tra tấn dã man
Họ coi đây như nhà mình, thấy việc thì làm, đến bữa cơm trưa, mọi người cùng góp thức ăn đem từ nhà. Mỗi người 2 bát, 2 đôi đũa, một của mình, một dành mời hương hồn đồng đội cùng ăn.
Trong lần thăm viếng này, tôi được nghe một tin vui, rằng từ năm 2013, Thành phố Hà Nội đã hỗ trợ một khoản kinh phí để bảo tàng hoạt động và năm nay, số tiền đã tăng lên 250 triệu đồng. Tuy rất nhỏ nhưng là nguồn động viên, hỗ trợ đầy ý nghĩa và kịp thời để giảm bớt khó khăn trong hoạt động của bảo tàng.
Tuy nhiên, tôi cũng rất băn khoăn khi được biết, từ lâu, chính quyền địa phương đã có chủ trương di chuyển bảo tàng ra địa điểm khác có diện tích lớn hơn nhưng mãi vẫn chưa thấy triển khai.
Mong rằng, chính quyền địa phương quan tâm hơn nữa đến hoạt động của bảo tàng, để nơi đây không chỉ là nơi tri ân những anh hùng, liệt sỹ đã ngã xuống vì tổ quốc mà còn là nơi lưu giữ và truyền ngọn lửa cách mạng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.