Ảnh minh họa.
CôngThương - Phân cấp quản lý vốn chồng chéo
Việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách về quản lý vốn, tài sản của DNNN trong thời gian qua cơ bản đã khắc phục được một số tồn tại, bất cập trong công tác quản lý, điều hành, sử dụng vốn, tài sản của DNNN để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. DNNN đã từng bước thực hiện được vai trò, nhiệm vụ của đại diện chủ sở hữu nhà nước giao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết kinh tế, ổn định vĩ mô, bảo đảm cân đối lớn của nền kinh tế.
Các quy định pháp luật được ban hành đã trao quyền cho doanh nghiệp chủ động tìm kiếm cơ hội kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, tìm kiếm thị trường đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của nhà nước, tăng thu ngân sách và tạo việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, còn tạo điều kiện cho DNNN thực hiện vai trò chủ đạo trong cung ứng các sản phẩm dịch vụ công ích cho xã hội, đầu tư vào các vùng - địa bàn kinh tế khó khăn, đặc biệt khó khăn, bảo đảm phát triển cân đối vùng miền và an ninh kinh tế quốc gia, cũng như tập trung đầu tư ở một số lĩnh vực trọng điểm quốc gia như: năng lượng, kết cấu hạ tầng, dịch vụ viễn thông.
Vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển, tăng từ 136.000 tỷ đồng trước năm 2006 lên 921.000 tỷ đồng năm 2012, tập trung chủ yếu ở các tập đoàn, tổng công ty. |
Bên cạnh những kết quả đạt được, cơ chế chính sách cho DNNN và hoạt động của DNNN cũng đã bộc lộ hạn chế, bất cập.
Đầu tư vốn nhà nước vào tổ chức kinh tế thông qua Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) quy định tại khoản 1 Điều 68 Luật Đầu tư thực tế chưa được triển khai đầy đủ do hạn chế về tính khả thi. Trong khi đó, từ năm 2004 đến nay, Nhà nước không còn cấp bổ sung vốn từ NSNN cho DNNN để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, ngoại trừ trường hợp thực hiện các nhiệm vụ cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc quyết định cấp để lại cho Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam một phần lợi nhuận được chia của nước chủ nhà trong Công ty liên doanh Vietsovpetro. Giai đoạn này cũng không sử dụng NSNN để cấp vốn điều lệ cho việc thành lập mới DNNN.
Các quy định pháp lý điều chỉnh các nhóm nội dung liên quan đến DNNN chưa được luật hóa kể từ thời điểm Luật DNNN năm 2003 hết hiệu lực. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp năm 2005 có phạm vi điều chỉnh tập trung vào việc thành lập, mô hình tổ chức của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhưng chưa giải quyết được các vấn đề đặc thù cho DNNN như việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản; phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN; cơ chế giám sát, công khai, minh bạch hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Phân công, phân cấp quản lý vốn và tài sản tại các doanh nghiệp giữa các cơ quan quản lý nhà nước còn chồng chéo, trùng lặp và không rõ phạm vi. Phạm vi đầu tư vốn nhà nước vào các ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn kinh tế khó khăn gắn với an ninh, quốc phòng và đảm bảo chủ quyền quốc gia còn hạn chế.
Hạn chế tối đa thành lập DNNN mới
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội - Nguyễn Văn Giàu cho biết, đa số ý kiến của các đại biểu nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh nhằm góp phần hoàn thiện, thống nhất khung pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước; khắc phục những bất cập đang tồn tại hiện nay và bảo đảm tính pháp lý đồng bộ với các luật có liên quan.
Việc tăng cường quản lý, giám sát đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình tái cơ cấu DNNN. Dự thảo luật đã quy định chi tiết về nội dung giám sát hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cũng như làm rõ các quy định về giám sát trong hệ thống đại diện chủ sở hữu nhà nước gắn với việc đánh giá, xếp loại doanh nghiệp; khuyến khích nâng cao chất lượng quản trị, năng lực cạnh tranh, công khai, minh bạch thông tin.
Cũng theo Ủy ban Kinh tế, phạm vi đầu tư theo các hình thức đầu tư vốn nhà nước vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã được quy định chi tiết tại dự thảo luật, đảm bảo tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc của việc đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp tại Điều 7 và Điều 8 của dự thảo luật. Tuy nhiên, cần xác định rõ hơn những ngành, lĩnh vực sẽ đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp theo từng hình thức đầu tư cụ thể. Theo đó, cần hạn chế tối đa việc Nhà nước thành lập doanh nghiệp mới, cũng như làm rõ những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần tiếp tục duy trì tỷ lệ cổ phần, vốn góp và đề nghị quy định cụ thể hơn về vai trò, mô hình hoạt động của doanh nghiệp có chức năng đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định cụ thể hóa định hướng tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước như đã nêu tại Kết luận số 50-KL/TW ngày 29/10/2012 tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
Báo cáo thẩm tra nói trên cũng nêu cụ thể loại ý kiến đề nghị làm rõ việc có tiếp tục duy trì mô hình Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước như hiện nay hay không. Dự thảo luật chưa đề cập đến mô hình doanh nghiệp này, do đó cần quy định cụ thể về vai trò, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của doanh nghiệp có chức năng đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.