Giảm nghèo phải đạt được giá trị bền vững
Trong nước 07/06/2014 15:55 Theo dõi Congthuong.vn trên
Nguồn tín dụng ưu đãi đã giúp nhiều người nghèo thoát nghèo (ảnh minh họa).
CôngThương - Theo báo cáo của Chính phủ, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 14,2% năm 2010 xuống 9,6% năm 2012; ở các xã và thôn, bản đặc biệt khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 47% (2006) xuống 28,8% (2010); tại 62 huyện nghèo giảm từ 58,33% (2010) xuống 43,89% (2012). Giai đoạn 2005 - 2012 tỉ lệ giảm nghèo cả nước đều đạt và vượt chỉ tiêu, bình quân mỗi năm giảm từ 2,3 - 2,5%.
Báo cáo khẳng định, kết quả giảm nghèo đã góp phần quan trọng vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống người dân, đặc biệt là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; giữ vững an ninh chính trị, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, nâng cao hình ảnh của Việt Nam đối với thế giới.
Dù vậy, tỉ lệ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn còn cao, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 50% số người nghèo cả nước. Năm 2012, các xã 135 tỉ lệ nghèo vẫn ở mức trên 40% và còn khoảng 900 nghìn hộ cận nghèo; thu nhập bình quân đầu người ở các xã này chỉ bằng khoảng 30% so với thu nhập chung khu vực nông thôn; cơ sở hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn vẫn còn nhiều hạn chế.
Đối với khu vực đô thị, một bộ phận người nghèo, người có thu nhập thấp có xu hướng phát sinh do quá trình đô thị hóa, di cư nông thôn - đô thị, phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong cuộc sống do phải bảo đảm chi phí đắt đỏ cho các dịch vụ y tế, nhà ở, giáo dục, đi lại và sinh hoạt tối thiểu. Ngoài ra, vấn đề nghèo còn chịu ảnh hưởng, tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, rủi ro trong cuộc sống và tệ nạn xã hội.
Mặc dù chưa có số liệu thống kê, đánh giá toàn diện về tác động của di dân, tái định cư, định canh do xây dựng các công trình thủy điện, khai thác khoáng sản, xây dựng các công trình hạ tầng đối với vấn đề nghèo, song thực tế cho thấy có một số nguy cơ đang tiềm ẩn đối với nghèo đói từ những vấn đề này.
Kiến nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Đến năm 2020, mục tiêu giảm tỷ lệ nghèo bình quân trong cả nước ít nhất 1,5%/năm, đối với các huyện nghèo giảm 4%/năm là phù hợp và có tính khả thi đối với điều kiện kinh tế -xã hội và mức thu nhập của người dân, đồng thời, quá trình cải cách nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động sẽ tác động tích cực để cải thiện cuộc sống cho người nghèo và những địa bàn khó khăn. |
Ngay sau khi Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội Trương Thị Mai trình bày báo cáo của Chính phủ, các đại biểu đã tiến hành thảo luận tại hội trường về nội dung trên.
Để việc giảm nghèo đạt được những giá trị bền vững, đại biểu Nguyễn Thu Anh (đoàn Lâm Đồng) đề nghị bổ sung kinh phí vào cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các hộ nghèo, đặc biệt là các trạm y tế xã, các trạm y tế vùng thôn bản để tạo điều kiện cho dân nghèo và dân tộc thiểu số tiếp cận với các dịch vụ y tế thuận lợi hơn và giảm chi phí chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Đại biểu Lưu Thị Huyền (đoàn Ninh Bình) đề nghị khi Chính phủ triển khai các Chương trình hỗ trợ giảm nghèo thì cần phải bố trí đủ nguồn lực, đồng thời phải có sự giám sát chặt chẽ để bảo đảm nguồn vốn sử dụng hiệu quả; xây dựng chính sách người nghèo cũng phải có sự phân nhóm đối với nhóm người nghèo kinh niên; nhóm người nghèo tạm thời để có chính sách phù hợp với từng đối tượng; hạn chế cơ chế bao cấp, cho không mà chỉ sử dụng cơ chế này khi thực sự cần thiết, tránh tình trạng lười lao động, ỉ lại.
Cũng có cùng quan điểm, đại biểu Nguyễn Thị Hương Thảo (đoàn Hải Dương) nêu ý kiến cần bảo đảm các nguồn lực được tập trung tránh dàn trải, bố trí các nguồn lực phải bám sát tình hình của địa phương, để địa phương chủ động sử dụng nhằm đảm bảo nguồn vốn giảm nghèo hiệu quả, sát thực tế. Bên cạnh đó, cần ưu tiên các gói chính sách tín dụng trực tiếp cho hộ nghèo đã đem lại hiệu quả thiết thực, đáp ứng một lượng lớn nhu cầu vốn của hộ nghèo.