Ảnh: Internet |
Đơn cử, thuế GTGT, Bộ Tài chính đề xuất chuyển phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng cho nông nghiệp, tàu đánh bắt xa bờ từ đối tượng không chịu thuế VAT sang đối tượng chịu thuế VAT; bổ sung quy định doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế suất thuế VAT 5%, nếu có số thuế VAT đầu vào chưa được khấu trừ hết sau 12 tháng hoặc 4 quý thì được hoàn thuế; bỏ quy định "sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản (TNKS) có tổng giá trị TNKS cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên" không chịu thuế VAT; quy định điều kiện khấu trừ thuế VAT đầu vào là có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hóa, dịch vụ mua từng lần từ mức dưới 20 triệu đồng xuống mức dưới 10 triệu đồng...
Đối với Luật Thuế TNDN, sẽ giảm thuế suất thuế TNDN với doanh nghiệp nhỏ và vừa tùy theo quy mô. Doanh thu sẽ được áp dụng thuế suất 15% - 17%. Bên cạnh đó, quy định khác về phương pháp nộp thuế, tỷ lệ thu thuế đối với nhà thầu nước ngoài; bù trừ thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản với lỗ từ hoạt động sản xuất - kinh doanh khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN... cũng sẽ theo hướng đơn giản.
Các đề xuất trên sẽ giúp khắc phục bất cập, tồn tại, tạo điều kiện cho DN giảm bớt chi phí, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, nhất là trong bối cảnh còn nhiều khó khăn như hiện nay.
Tuy nhiên, ở khía cạnh ngược lại, Bộ Tài chính đề xuất nâng mức thuế suất thuế VAT đối với nhiều loại dịch vụ hàng hóa, từ mức 10% lên 12%; tăng thuế TTĐB với thuốc lá, xì gà; áp thuế TTĐB với nước ngọt theo lộ trình... Lý do là để bù đắp chi, bù đắp do giảm một số loại thuế của DN; phù hợp với thông lệ quốc tế khi nhiều dòng thuế "hội nhập" giảm về 0%.
Nhiều ý kiến cho rằng, việc tăng - giảm thuế là chuyện bình thường nhưng cần cân nhắc kỹ những tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống nhân dân. Vì vậy, rất cần có lộ trình cụ thể và công cụ kiểm soát tốt để hài hòa "ngân sách" và "chính sách".