Quốc hội cho ý kiến về Luật Quy hoạch |
Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật quy hoạch, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho rằng, đa số ý kiến của các đại biểu nhất trí với phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật Quy hoạch. Có ý kiến đề nghị mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật; đề nghị cân nhắc quy định theo hướng Luật này quy định về nguyên tắc, chính sách và quản lý nhà nước về quy hoạch.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhấn mạnh: Ủy ban thường vụ Quốc hội tiếp thu và chỉnh lý như tại Điều 1 dự thảo Luật. Theo đó, phạm vi điều chỉnh bao gồm việc lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố, thực hiện, điều chỉnh, giám sát, đánh giá, kiểm tra, thanh tra quy hoạch; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động quy hoạch.
Một số ý kiến đề nghị bổ sung một số nguyên tắc như: đảm bảo tính khả thi, tính đồng bộ; tính dự báo; tính ổn định, bảo vệ môi trường, tính nhân dân, tiết kiệm, tính thứ bậc,... Có ý kiến đề nghị bổ sung căn cứ lập quy hoạch.
Về vấn đề này, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng việc quy định cụ thể hơn các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quy hoạch cũng như nguyên tắc lập quy hoạch sẽ khắc phục được những hạn chế của công tác quy hoạch hiện nay đó là thiếu tính liên kết, đồng bộ, mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với nguồn lực.
Đặc biệt về quy hoạch vùng trời, ông Thanh cho biết một số ý kiến đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy hoạch vùng trời thành 1 loại quy hoạch riêng trong hệ thống quy hoạch hoặc thành một khoản của quy hoạch tổng thể quốc gia.
Tuy vậy, qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và tham khảo ý kiến chuyên gia thì hiện nay chưa có quốc gia nào xây dựng quy hoạch riêng về vùng trời. Các hoạt động quy hoạch hiện nay là việc phân bổ và sắp xếp không gian bao gồm cả trên mặt đất, dưới lòng đất và trên vùng trời tới một độ cao nhất định phù hợp với các điều ước quốc tế. Do vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin bổ sung điểm g khoản 2 Điều 23 về quy hoạch tổng thể quốc gia về “Định hướng khai thác và sử dụng vùng trời”. Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn chi tiết nội dung quy định này.
Cũng theo ông Thanh, trong mục “giải thích từ ngữ” của báo cáo, có ý kiến cho rằng cần giữ lại tên “Quy hoạch sử dụng biển” theo quy định tại Luật biển Việt Nam và Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo để tránh việc sửa đổi nhiều luật, đặc biệt là Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo mới được ban hành năm 2015. Nhiều ý kiến cho rằng cần đổi tên quy hoạch liên quan đến không gian biển thành “Quy hoạch không gian biển quốc gia” để đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế…
Về kiến nghị này, ông Thanh cho biết, không gian biển là không gian mở, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhất là an ninh quốc phòng. Đây là khoảng không gian không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam mà còn cả các cam kết quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về biển năm 1982. Theo Công ước của Liên hợp quốc về biển năm 1982, chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình.
Quốc gia ven biển có thể định ra, phù hợp với các quy định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, các luật và quy định liên quan đến việc đi qua không gây hại ở trong lãnh hải của mình . Đối với các vùng biển nằm ngoài lãnh hải (vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, biển cả), quốc gia ven biển chỉ có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với một số lĩnh vực nhất định, quốc gia ven biển cũng phải tôn trọng quyền tự do biển cả.
Theo đó, nếu dùng thuật ngữ “quy hoạch sử dụng biển” thì phạm vi quy hoạch chỉ có thể trong vùng lãnh hải. Mặt khác, thuật ngữ “quy hoạch không gian biển” đã được nhiều quốc gia sử dụng từ rất lâu (như Hoa Kỳ, Australia, một số quốc gia thuộc Cộng đồng Châu Âu, Trung Quốc...). Vì vậy, để phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, quy hoạch đối với không gian biển cần được đặt tên là “quy hoạch không gian biển quốc gia.
Ủy ban thường vụ quốc hội cho biết, theo báo cáo của các cơ quan hữu quan được phân công qua rà soát, có 32 Luật cần sửa đổi, bổ sung các Điều liên quan đến quy hoạch để phù hợp với dự án Luật quy hoạch (quy định tại Phụ lục 2 của dự thảo Luật).
Để bảo đảm tính khả thi, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉnh lý khoản 1 Điều 69 của dự thảo Luật theo hướng Luật quy hoạch sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2019.
TIN LIÊN QUAN | |
Đồng bộ các giải pháp để đạt mục tiêu tăng trưởng |