Việc thay đổi hình thức vận chuyển than bằng băng tải thay cho ô tô sẽ tiết giảm 10-15% chi phí vận chuyển
CôngThương - Sau những nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương và Vinacomin, tình hình khai thác, kinh doanh than trái phép có giảm. Nhưng thời gian gần đây, nhất là cuối năm 2010 và những tháng đầu năm 2011, tình trạng này đang có dấu hiệu tái diễn với quy mô và mức độ quan ngại.
Khai thác than trái phép tái diễn phức tạp
Liên tục trong những tháng đầu năm, trên các phương tiện thông tin đại chúng xuất hiện dày đặc những thông tin, như: Ngày 8/4, tại cửa khẩu Vạn Gia, Móng Cái, có tới 70/100 con tàu chở than bất hợp pháp đang trên hành trình sang Trung Quốc bị ách lại để kiểm tra. Ba tháng đầu năm, Vinacomin đã phối hợp tỉnh Quảng Ninh và các ngành chức năng phát hiện, xử lý 417 lò, điểm khai thác than trái phép tại các diện tích chứa than nằm trong ranh giới quản lý. Riêng trên địa bàn thành phố Hạ Long, số vụ khai thác, vận chuyển than trái phép 6 tháng đầu năm đã xấp xỉ bằng cả năm 2010. Lực lượng chức năng của thành phố đã triệt phá 389 lượt cửa lò; kiểm tra, tạm giữ 70 xe ô tô, 12 tàu vận chuyển, tịch thu hơn 3.700 tấn than của 13 điểm kinh doanh, bán và nộp ngân sách hơn 1,2 tỷ đồng.
Qua công tác kiểm tra, kiểm soát thực tế cho thấy, các đối tượng khai thác, vận chuyển, tiêu thụ trái phép ngày càng có nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi hơn, như: Không sử dụng các cửa khẩu, tuyến đường bộ, đường thủy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh mà chuyển nguồn than trái phép đến Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng... rồi xuất lậu qua đường biển Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An. Một số trường hợp lợi dụng việc vận chuyển than cho các hộ cuối nguồn thuộc các tỉnh miền Trung và miền Nam nhưng giữa đường “bẻ lái” xuất lậu sang Trung Quốc.
Ngoài việc thu gom để xuất lậu, một hình thức khá phổ biến là “phù phép” cho than khai thác trái phép thành than hợp pháp và tiêu thụ tại thị trường nội địa.
Phương tiện vận chuyển than trái phép do Bộ đội Biên phòng Quảng Ninh thu giữ
Có thể nói, tình trạng khai thác, vận chuyển và kinh doanh than trái phép chưa bao giờ “nguội”. Chính vì vậy, tại Hội nghị Đánh giá tình hình thực hiện Thông báo số 109/TB-VPCP được tổ chức mới đây tại thành phố Hạ Long, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Quảng Ninh - ông Đỗ Thông - cho biết, việc quản lý, ngăn chặn tình hình khai thác, kinh doanh than trái phép luôn được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị địa phương. Ông Đỗ Thông cũng kiến nghị, Chính phủ chỉ đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Công an tăng cường phối hợp với chính quyền và Vinacomin đẩy mạnh việc kiểm tra, kiểm soát vùng biên giới, ngăn chặn và xử lý nghiêm việc xuất lậu than; chỉ đạo các tỉnh, thành phố có hoạt động khai thác, kinh doanh than, phối hợp có hiệu quả trong công tác bảo vệ tài nguyên.
Nguồn tài nguyên than góp phần to lớn vào việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Mỗi năm nước ta mất đi một lượng than rất lớn, tương đương với 4.500 tỷ đồng do nạn khai thác, kinh doanh trái phép. Hơn lúc nào hết, cần có giải pháp tổng thể và quyết liệt. Nói như ông Đào Xuân Đan - Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long: “Nếu có một chỉ thị giống như "406" (Chỉ thị 406-TTg ngày 8/8/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo) đối với ngành than thì chỉ trong 6 tháng là có thể làm sạch (nạn khai thác, kinh doanh than trái phép - PV) được ngay. |
Nguyên nhân của mọi nguyên nhân
Giải thích về tình trạng khai thác, kinh doanh than trái phép diễn biến phức tạp trong thời gian qua, các cơ quan chức năng đã đưa ra nhiều lý giải: Công tác xây dựng quy hoạch chậm; việc phân định ranh giới mỏ chưa rõ ràng; quy chế cung cấp than cho các hộ tiêu thụ trong nước chưa chặt chẽ; sự phối hợp giữa các cơ quan, địa phương chưa hiệu quả; chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe… Song, nhìn từ quan điểm thị trường thì dường như những liệu pháp mà các cơ quan quản lý áp dụng (hoàn thiện quy hoạch phát triển ngành than; tiếp tục rà soát để xác định rõ ranh giới mỏ; tăng cường kiểm tra công tác quản lý, khai thác, kinh doanh than; tăng chế tài xử phạt vi phạm…) mới chỉ chữa được “triệu chứng” chứ chưa trị được “căn nguyên” đang làm thất thoát một lượng lớn tài nguyên của đất nước.
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Trần Xuân Hòa – Chủ tịch Hội đồng thành viên Vinacomin - cho biết, nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính là lợi nhuận từ hoạt động bất hợp pháp này là rất lớn, mà lợi nhuận đó lại được tạo ra từ chênh lệch giá. Có hai dạng chênh lệch giá. Thứ nhất, tại thị trường nội địa, giá than (trừ giá bán cho ngành điện) ở khoảng 1,2- 1,7 triệu đồng/tấn tùy loại. Trong khi giá than khai thác trái phép chỉ khoảng 400-500 nghìn đồng/tấn (chưa kể các chi phí khác). Như vậy, nếu các đối tượng khai thác trái phép “biến” than lậu thành than khai thác chính thức (được cấp phép, có đủ giấy tờ, hóa đơn…) thì lợi nhuận thu được khi bán tại nội địa ít nhất cũng gấp đôi. Thứ hai, trong khi giá than nội địa ở mức đã nêu trên, thì giá than xuất khẩu chính thức trung bình khoảng trên dưới 110 USD, tương đương khoảng trên 2 triệu đồng/tấn. Khoản chênh lệch quá lớn này đã trở thành “lực hút” cực mạnh khiến các đối tượng thu gom, xuất lậu bất chấp mọi thủ đoạn, để qua mặt các cơ quan chức năng.
Nên thực hiện "thị trường hóa giá than"
Cũng theo ông Trần Xuân Hòa, giải pháp quan trọng nhất là cần kíp thực hiện thị trường hóa giá than vì đây mới là giải pháp giải quyết tận gốc vấn đề than trái phép. “Thị trường hóa giá than sẽ giúp mọi người tiêu dùng đều phải tham gia bảo vệ tài nguyên than, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên không tái tạo này” - ông Trần Xuân Hòa nhấn mạnh.
Thực tế cho thấy, với cơ chế giá than như hiện nay không chỉ tạo ra chênh lệch giá lớn giữa các hộ tiêu dùng trong nước với nhau và với giá xuất khẩu, mà còn khiến các doanh nghiệp sử dụng than trong nước không có ý thức sử dụng tiết kiệm, hiệu quả than trong sản xuất, gây khó khăn trong công tác quản lý tài nguyên than.
Ngoài ra, ông Hòa cũng nêu ra một giải pháp hữu hiệu là thay đổi hình thức vận chuyển than từ khai trường đến các điểm tập kết bằng băng tải thay cho ô tô như hiện nay, lợi ích đầu tiên là tiết giảm được từ 10-15% chi phí trong khâu vận chuyển. “Nếu áp dụng hình thức này, chúng ta không chỉ giải quyết được tình trạng thất thoát than trong quá trình vận chuyển, chặn đứng tình trạng vận chuyển than trái phép mà còn mang lại nhiều lợi ích về kinh tế, môi trường”.
Trong khi toàn bộ xe vận tải của ngành than hiện nay đều phải nhập khẩu, thực hiện hệ thống băng tải còn tạo điều kiện cho ngành Cơ khí Việt Nam có thể thiết kế, sản xuất được hệ thống này, góp phần giảm nhập siêu.
Theo kế hoạch, đến năm 2015, Vinacomin sẽ thay thế hoàn toàn hệ thống vận chuyển than bằng ô tô từ các mỏ, các nhà máy sàng tuyển ra các bến cảng tiêu thụ bằng các hệ thống băng tải. Để khởi động cho kế hoạch này, Vinacomin và UBND tỉnh Quảng Ninh đang triển khai gấp rút việc quy hoạch các bến bãi tập kết than tập trung, không để tình trạng nhiều bến bãi nhỏ lẻ. Vinacomin cũng đang chuẩn bị các thủ tục để mở thầu gói thầu xây dựng tuyến băng tải đầu tiên từ Nhà máy tuyển than Mạo Khê tới Nhà máy nhiệt điện Mạo Khê, với chiều dài trên 4km bằng hình thức xã hội hóa.