CôngThương - Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Ngô Thường San - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam - cho biết: Biến đổi khí hậu (BĐKH) mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và nước biển dâng là một trong những thách thức lớn nhất đối với toàn nhân loại trong thế kỷ 21. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là 1 trong 5 nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ BĐKH và nước biển dâng, trong đó, đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng sẽ chịu ảnh hưởng nặng nhất. Nếu nước biển dâng thêm 1m, 10% dân số Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và thiệt hại trên 10% GDP…
Theo GS.TS. Hồ Sỹ Thoảng, đầu tư cho năng lượng tái tạo trên thế giới trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2010 tăng dần từ 130 lên 211 tỷ USD, số lượng các nước tham gia vào lĩnh vực năng lượng tái tạo từ 39 nước lên 98 nước, sản xuất ethanol từ 67 lên 86 tỷ lít. Hiện nay, ở Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển nhiên liệu sinh học thế hệ 1, trong đó ethanol và biodiesel sẽ loại ra khỏi vòng tính toán của UOP. Năm 2010, trên toàn thế giới nhiên liệu sinh học cung cấp 2,7% cho giao thông vận tải, trong đó 31 nước chính thức sử dụng nhiên liệu sinh học pha trộn.
Tại hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận xung quanh vấn đề: So sánh hiệu quả của các nguồn nguyên liệu mới (rơm rạ, trấu, tảo…) để nâng cao hiệu quả chế biến nhiên liệu sinh học, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đẩy mạnh triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất; mối quan hệ nhiên liệu sinh học - giá dầu, nhiên liệu sinh học - lương thực, mức độ phát thải CO2, vấn đề đa dạng sinh học, nguồn nước, cân bằng năng lượng; khuyến khích thực hiện chuyển giao công nghệ và tạo môi trường đầu tư phát triển sản xuất nhiên liệu sinh học; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu phát triển nhiên liệu sinh học... Việc bổ sung, đa dạng hóa nguồn năng lượng sơ cấp, trong đó năng lượng tái tạo là hết sức cần thiết đối với Việt Nam, để phát triển bền vững, đặc biệt trong bối cảnh BĐKH đang diễn ra.
Trước tình hình trên, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu, trong giai đoạn 2011 - 2015: Sản xuất được các phụ gia, men và vật liệu cho sản xuất nhiên liệu sinh học, phát triển sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học thay thế nhiên liệu truyền thống; phát triển các giống nguyên liệu mới có năng suất cao; xây dựng mô hình sản xuất nhiên liệu sinh học tương đương với 1% nhu cầu xăng dầu cả nước vào năm 2015; bảo đảm cung cấp 20% nhu cầu cả nước về E5 và B5. Giai đoạn 2016 đến 2025: Xây dựng ngành nhiên liệu sinh học tiên tiến, hiện đại và bền vững; bảo đảm cung cấp 100% nhu cầu cả nước về E5 và B5.
Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ đã ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhiên liệu sinh học. Tuy nhiên, hiện vẫn còn thiếu đầu tư cho công tác đánh giá tiềm năng, xây dựng cơ sở dữ liệu và thiếu nguồn kinh phí dài hạn cho chương trình…
Nhận thức tầm quan trọng của nhiên liệu xanh đối với vấn đề an ninh năng lượng, Petrovietnam nỗ lực vượt khó khăn ban đầu, xây dựng chiến lược phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2025. Theo đó, đã đầu tư 3 nhà máy ở 3 vùng Bắc, Trung, Nam, công suất mỗi nhà máy 100.000 m³/năm, đồng thời còn nghiên cứu lập báo cáo đầu tư dự án sản xuất biodiesel, công suất 100.000 tấn/năm và thử nghiệm trồng cây hạt dầu Jatropha cũng như nghiên cứu sản xuất nhiên liệu sinh học từ các nguồn nguyên liệu khác (lên men từ rơm rạ, trấu…).
Petrovietnam kiên trì phát triển nhiên liệu sinh học với mục tiêu trong giai đoạn tới là, xây dựng quy hoạch tổng thể vùng nguyên liệu cho sản xuất nhiên liệu sinh học tại Việt Nam; nâng cao hiệu quả của dự án hiện có, tối ưu hóa năng lượng cho các nhà máy sản xuất ethanol; sản xuất các phụ gia cho ethanol sinh học, xăng pha cồn và biodiesel; pha trộn trực tiếp dầu sinh học với dầu hóa thạch để giảm chi phí chế biến, xây dựng hành lang pháp lý cho sử dụng dầu diesel sinh học, xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân phối nhiên liệu sinh học...