Phát triển ngô bền vững: Hạ giá thành, cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu
Nông nghiệp - nông thôn 17/07/2017 17:50 Theo dõi Congthuong.vn trên
Ruộng ngô biến đổi gen cho năng suất cao và mang lại hiệu quả kinh tế |
Nghịch lý xuất gạo, nhập ngô
Chia sẻ tại Hội thảo Phát triển ngô bền vững tại các tỉnh phía Bắc diễn ra trong hai ngày 14-15/7 tại Mộc Châu (Sơn La), ông Trần Xuân Định - Cục phó Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) - cho biết, trong những năm gần đây, diện tích trồng ngô của cả nước dao động khoảng hơn 1 triệu ha, tuy nhiên, năng suất trung bình còn khá thấp, chỉ ở mức 4,5 triệu/tấn. Hàng năm, Việt Nam vẫn phải chi một lượng lớn ngoại tệ để nhập khẩu ngô hạt về phục vụ nhu cầu chế biến thức ăn chăn nuôi trong nước. Đó chính là mâu thuẫn nội tại của ngành trồng trọt, khi gạo thì xuất khẩu, thậm chí xuất khẩu khó khăn, còn ngô thì nhập đến hơn 50% về giá trị (trên 1,65 tỷ USD năm 2016) so với gạo xuất. Giá ngô nhập khẩu giảm mạnh trong những năm gần đây khiến tổng lượng nhập khẩu ngô về Việt Nam tăng nhanh, cụ thể năm 2016, Việt Nam nhập 8,3 triệu tấn ngô, điều này tạo ra áp lực rất lớn đối với nông dân trồng ngô trong nước.
Cũng theo ông Định, cây ngô vẫn là cây lương thực quan trọng. Với nhu cầu thực phẩm, thức ăn chăn nuôi ngày một tăng như hiện nay, việc có được nhiều hơn quyền chủ động về nguồn cung giúp đảm bảo an ninh lương thực, đồng thời tránh khỏi tình trạng phụ thuộc và thất thoát ngoại tệ. Bộ NN&PTNT đã định hướng duy trì diện tích canh tác như hiện tại, nhưng nâng cao giá trị và sản lượng trên mỗi đơn vị diện tích canh tác. Cụ thể là khuyến khích ứng dụng các loại giống mới, phương pháp canh tác tiên tiến và đẩy mạnh cơ giới hóa. Hiện năng suất ngô trung bình của Việt Nam còn đang ở mức rất thấp do điều kiện canh tác không thuận lợi, địa hình khó khăn, việc ứng dụng các giống mới kháng lại các tác nhân bất thuận sẽ giúp đảm bảo năng suất tiềm năng và nhờ đó nâng cao sản lượng và chất lượng ngô sau thu hoạch. Việc công nhận và đưa các giống chuyển gen vào sản xuất từ năm 2015 bước đầu tạo ra các tín hiệu tích cực khi năng suất và thu nhập của bà con nông dân trồng ngô được cải thiện rõ rệt. Năm 2016, ước diện tích ngô chuyển gen chiếm khoảng 10% tổng diện tích trồng ngô của cả nước…
Hình thành các chuỗi giá trị khép kín trong sản xuất ngô
Bước đầu thành công nhờ ứng dụng các giống ngô lai mới tại Sơn La, ông Dương Gia Định - Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ thực vật và Trồng trọt tỉnh Sơn La - nhận định, việc áp dụng các giống ngô mới là một trong các trọng tâm phát triển của tỉnh trong đó có mở rộng, khuyến khích sản xuất ngô biến đổi gen. Năm 2016 diện tích ngô biến đổi gen của tỉnh là khoảng 6.000ha. Tính đến tháng 6/2017 đã có 3.500ha. Qua đánh giá thì các giống chuyển gen rất có triển vọng và phù hợp với điều kiện canh tác của tỉnh và cho năng suất rất cao, như tại Cò Nòi, năng suất có thể lên tới 12 tấn/ha.
Anh Hoàng Văn Tuyến - nông dân tại đội sản xuất 77, thị trấn Nông trường huyện Mộc Châu - cho biết thêm: Trong những năm gần đây, tốc độ tăng đàn của bò sữa trong khu vực Mộc Châu (Sơn La) ước tính 15-20%, vì vậy việc đảm bảo nguồn thức ăn cho bò sữa nói chung và việc tăng diện tích trồng ngô sinh khối là rất quan trọng. Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò sữa, gia đình tôi có canh tác 4,5ha đất trong đó 4ha trồng ngô sinh khối, 0,5ha trồng cỏ. Do thời gian thu hoạch ngô lấy sinh khối ngắn hơn so với trồng ngô lấy bắp khoảng 20-25 ngày nên nông dân có thể tranh thủ trồng 2 vụ ngô một năm thay vì một vụ như thông thường. Điều này vừa đảm bảo nguồn thức ăn cho bò sữa, giúp nông dân có thêm thu nhập, vừa hạn chế áp lực cỏ dại. Trồng ngô lấy sinh khối hiệu quả kinh tế cao hơn 1,6 lần so với canh tác ngô lấy bắp. Theo như hạch toán của hộ gia đình, 1ha ngô lấy sinh khối lãi hơn 25,6 triệu đồng trong khi trồng ngô lấy bắp, lấy hạt chỉ hơn 15,6 triệu đồng.
Theo dự đoán của Viện Chính sách và phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), nhu cầu về thức ăn chăn nuôi của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, đến năm 2020, Việt Nam sẽ cần khoảng 9 triệu tấn ngô và sản xuất trong nước vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu. Đồng thời với quá trình hội nhập, thuế nhập khẩu đối với ngô sẽ có xu hướng giảm. Tất cả các nhân tố trên sẽ tạo áp lực rất lớn cho sản xuất trong nước. Để tăng sức cạnh tranh, đại diện IPSARD cho rằng, vấn đề cốt lõi đó là nâng cao chất lượng sản xuất ngô, đồng thời tổ chức sản xuất lại - giảm bớt can thiệp của quá nhiều tác nhân trung gian tham gia vào chuỗi giá trị. Mô hình tổ nhóm hợp tác xã kết nối trực tiếp với doanh nghiệp được đưa ra như một giải pháp quan trọng, trong đó nông dân liên kết sản xuất, doanh nghiệp trực tiếp hỗ trợ về phương tiện, giống, kỹ thuật canh tác và đảm bảo xử lý, bao tiêu sau thu hoạch.
Liên quan đến vấn đề này, đại diện Tổ chức CropLife Việt Nam cho rằng, Việt Nam đã đưa các giống ngô lai vào sản xuất từ những năm 1995 và tại thời điểm đó đã tạo ra cuộc cách mạng về tăng năng suất. Tuy nhiên, cho đến nay, năng suất của các giống ngô lai mới thường đã đến mức tới hạn và đòi hỏi cần có các cải tiến mới. Việc phát triển và canh tác các giống ngô chuyển gen là một giải pháp quan trọng, thông qua các cải tiến về giống và phương pháp canh tác, các giống ngô chuyển gen giúp bảo toàn năng suất tiềm năng, hạn chế hư hại năng suất do sâu hại và cỏ dại, đồng thời giảm chi phí đầu vào và các tác động tiêu cực lên môi trường.
Ông Trần Xuân Định nhấn mạnh, hiện nay sản xuất ngô trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 40-45% nhu cầu ngô hạt phục vụ chế biến thức ăn chăn nuôi trong nước. Giai đoạn từ nay đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, sản xuất ngô trong nước tiếp tục hướng vào thị trường nội địa. Vấn đề cần đặt ra đối với sản xuất ngô trong thời gian tới là đẩy mạnh thực hiện các giải pháp hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh với ngô nhập khẩu. Chính vì thế, Cục Trồng trọt đề xuất, cần đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Quyết định số 915 ngày 27/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Chính sách hỗ trợ để chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô tại vùng trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên.