Theo chỉ số hoạt động logistics của Ngân hàng Thế giới (WB) (LPI), năm 2014 Việt Nam đứng ở vị trí 48 và năm 2016 ở vị trí 64/160 nước trên thế giới. Trong ASEAN, Việt Nam xếp thứ 4 năm 2014 và thứ 5 năm 2016, sau các nước Singapore, Malaysia, Thái Lan và Indonesia. Tuy nhiên chỉ số này thiên về dịch vụ logistics quốc tế, chưa phản ánh đúng sự phát triển của ngành dịch vụ logistics Việt Nam trong thời gian qua.
Năm 2014, chi phí logistics của nước ta tương đương khoảng 21% GDP, trong khi đó các nước phát triển, tỷ lệ này là từ 9-14%. Ngành dịch vụ logistics đóng góp khoảng 3% GDP năm 2014. Cả nước hiện có khoảng 3.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, đại đa số là doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ, trong đó khoảng 1.300 doanh nghiệp đang hoạt động tích cực. Tỷ lệ thuê ngoài mới đạt 35-40%. Điểm yếu nhất là chi phí dịch vụ logistics còn cao do hạn chế về quy mô, áp dụng công nghệ thông tin, trình độ quản lý và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. Bên cạnh đó việc kết nối với các chủ hàng và trong nội bộ ngành chưa tốt. Chính vị vậy vai trò và vị trí của ngành dịch vụ logistics chưa tương xứng với tiềm năng phát triển, vị trí địa chính trị của Việt Nam trong khu vực phát triển năng động và nằm trên tuyến hàng hải quốc tế quan trọng nối liền Đông - Tây, nơi có hơn 80% hàng hóa buôn bán quốc tế thông thương.
Chi phí logistics là nút thắt cần tháo gỡ để nâng cao năng lực cạnh của ngành logistics Việt Nam. Chi phí logistics nước ta hiện nay bao gồm chi phí về vận tải, chiếm khoảng 60%, chi phí tồn kho và chi phí quản lý chiếm khoảng 40%. Trong chi phí vận tải bộ thì chi phí xăng dầu chiếm khoảng 30-35%, chi phí cầu đường (chủ yếu là phí BOT) chiếm khoảng 10% và chi phí ngoài luồng trên đường khoảng 3-5%.
Chi phí này thay đổi tùy theo địa bàn vận chuyển. Năm 2015, vận tải hàng hóa bằng ôtô chiếm khoảng 75% vận tải hàng hóa nội địa. Khoảng 90% hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển, trong khi đội tàu treo cờ Việt Nam, chủ yếu là tàu chở hàng rời và tàu container cỡ nhỏ, chỉ đảm nhận được khoảng 12% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu. Kết cấu hạ tầng cảng biển và hậu cần sau cảng còn hạn chế, gây ách tắc hàng hóa ra vào cảng, làm tăng chi phí logistics.
Bên cạnh đó, chi phí logistics của chủ hàng tăng còn do các hãng tàu container nước ngoài đang thu nhiều loại phụ phí tại cảng biển, đặc biệt phụ phí THC, hoặc thu phí cơ sở hạ tầng cửa khẩu cảng biển của Hải Phòng quá cao. Đội tàu bay nước ta mới chỉ đảm nhận chuyên chở khoảng 10% hàng hóa. Vận tải hàng hóa bằng đường sắt, đường thủy nội địa và đường biển, có chi phí thấp hơn nhiều so với đường bộ, nhưng còn chiếm tỷ lệ thấp. Năm 2015, vận tải đường sắt chiếm 0,59%, đường thủy nội địa: 17,16% và đường biển là 5,15%. Chính vị vậy, việc cơ cấu lại hoạt động vận tải, đẩy mạnh vận tải đa phương thức - xương sống của hoạt động logistics - đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giảm chi phí logistics của nước ta.
Để phát triển ngành dịch vụ logistics nước ta trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, ngành dịch vụ mang lại giá trị gia tăng cao, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 200/QĐ-TTg, ngày 14/2/2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển dịch vụ logistics đến năm 2015, trong đó đề ra các nhiệm vụ cụ thể về giảm chi phí logistics qua đó góp phần vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và thương mại nói riêng.
Muốn giảm chi phí logistics, chúng ta phải thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cụ thể nêu trong Quyết định 200/QĐ-TTg, trong đó có các vấn để về thể chế, chính sách, về phát triển kết cấu hạ tầng (cứng và mềm), về quản lý - như thành lập ủy ban quốc gia điều phối hoạt động logistics như các nước trong khu vực đã làm, về phát triển vững mạnh các nhà cung cấp dịch vụ logistics, tăng cường mối quan hệ hợp tác với các nhà thuê dịch vụ logistics và vấn đề áp dụng công nghệ thông tin và đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong điều kiện hội nhập kinh tế sâu rộng và cuộc cách mạng công nghệ 4.0, ngoài việc tập trung giảm chi phí vận tải như đề cập ở phần trên.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng là giải quyết vấn đề con người. Hiện nay, các công ty cung cấp dịch vụ logistics của Việt Nam có năng suất lao động thấp so với các công ty cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia đang hành nghề tại Việt Nam. Việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành dịch vụ logistics Việt Nam đang trở nên cấp bách, không những đáp ứng yêu cầu trong nước mà còn giúp cho nguồn nhân lực này tìm kiếm các cơ hội việc làm tại các nước ASEAN khi Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đang được thực hiện cho phép di chuyển nguồn nhân lực trong ngành logistics. Đến năm 2025, ngành dịch vụ logistics nước ta cần ít nhất 200.000 người có chất lượng cao.
Hiệp hội Doanh nghiệp logistics Việt Nam (VLA) với hơn 350 hội viên hiện nay, sẽ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập vào năm 2018. Tháng 9/2017, hiệp hội đã hoàn thành việc xây dựng Kế hoạch hành động triển khai thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ và gửi Bộ Công Thương như yêu cầu đề ra.
Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, hiệp hội đã tiến hành củng cố Viện Nghiên cứu phát triển logistics (VLI) đủ mạnh để thực hiện việc liên kết quốc tế trong đào tạo dài hạn và ngắn hạn theo chương trình đào tạo logistics quốc tế. Tháng 10/2017, hiệp hội đã được FITA - Tổ chức giao nhận, logistics quốc tế, phê duyệt lại chương trình đào tạo giao nhận, logistics với 14 modules. Đồng thời hiệp hội đã chủ động bàn việc hợp tác với các trường đại học trong nước để hợp tác trong việc đào tạo ngắn hạn và dài hạn cho cán bộ, nhân viên trong ngành logistics, xây dựng chương trình đào tạo cấp đại hoc và trên đại học, phối hợp đào tạo với các cơ sở đào tạo chuyên ngành logistics ở các nước phát triển.
Bằng cách làm này, hy vọng trong thời gian tới chúng ta sẽ có nguồn nhân lực logistics đạt tiêu chuẩn quốc tế, góp phần phát triển ngành dịch vụ logistics Việt Nam như mục tiêu mà Quyết định 200 đã đề ra đến năm 2025 là tăng trưởng từ 15-20%, Đóng góp vào GDP từ 8-10%, Tỷ lệ thuê ngoài đạt từ 50-60%, chi phí logistics tương đương từ 16-20% GDP và đứng trong top 50, theo xếp hạng LPI của WB.