Ảnh:Internet
CôngThương - * Năm 2011 là năm ổn định kinh tế vĩ mô. Vậy theo ông, thông điệp nào phù hợp với bối cảnh này của Việt Nam?
- Xác định ổn định kinh tế vĩ mô sẽ nâng cao hiệu quả kinh tế, năm 2011 ngân sách chấp nhận mức thâm hụt ít hơn, mức phát hành trái phiếu cũng thấp hơn. Nhưng thông điệp như vậy chưa nhất quán với sự cam kết tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô.
Thực tế, do một số vấn đề nội tại của nền kinh tế, của hệ thống ngân hàng thương mại..., nên lãi suất tăng cao. Hiện áp lực tỷ giá đang rất cao, và một trong những cách bảo vệ đồng tiền là ấn định lãi suất ở mức phù hợp. Điều này đòi hỏi chúng ta phải thật rõ ràng với thị trường, đừng nói “phải giảm lãi suất” một cách chung chung.
Theo tôi, thông điệp đưa ra phải là, khi nền kinh tế chưa ổn định rõ ràng, lạm phát còn cao thì lãi suất còn phải cao. Cách xử lý khéo léo ở đây liên quan đến cách thức hoạt động của thị trường tiền tệ và sự điều tiết, cách thức chi tiêu, đặc biệt là chi tiêu của ngân sách giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và hệ thống ngân hàng thương mại.
Một nền kinh tế không thể dựa mãi vào lượng vốn đầu tư, cung ứng tín dụng. Năm 2011 chúng ta phải chuyển mô hình tăng trưởng, đó là năng suất, chứ không phải chỉ là tăng lượng vốn đầu tư.
* Trong năm 2010, kiểm soát lãi suất bằng hình thức hành chính là một trong những nguyên nhân khiến việc điều hành ngân hàng lúng túng. Liệu có nên áp dụng cách quản lý này khi phải chịu lãi suất cao, mà còn gây khó cho ổn định kinh tế?
- Tình hình sẽ ổn định nếu có hệ thống tài chính lành mạnh, hệ thống ngân hàng cạnh tranh và NHNN có khả năng điều tiết một cách có hiệu lực, tất nhiên, lãi suất phải rất thị trường. Nhưng cái khó nhất ở Việt Nam là cấu trúc thị trường, cạnh tranh chưa đúng nghĩa. Đặc biệt, cách thức điều tiết, hiệu lực của NHNN ở chỗ này, chỗ kia còn có vấn đề.
Trước đây, trong bối cảnh rủi ro bất ổn cao, cực chẳng đã chúng ta vẫn phải có cách thức kiểm soát lãi suất bằng một hình thức hành chính. Điều này đã gây áp lực lên thị trường, bằng chứng là năm 2010, ở chừng mực nào đó cho thấy sự lúng túng khi áp dụng biện pháp hành chính.
Trước đây, chúng ta kiểm soát theo trần lãi suất cho vay không quá 150% lãi suất cơ bản, bây giờ lại ấn định lãi suất huy động không quá 14%. Sẽ không dễ dàng rút lui khỏi biện pháp hành chính ấy khi tình hình ổn định trở lại. Vì vậy, ngay cả khi buộc phải có ứng xử hành chính thì cũng cần nghĩ cách rút lui sao cho êm thấm.
* Theo NHNN, nếu lạm phát 6 tháng đầu năm ở mức 3,5%, thì lãi suất ngân hàng sẽ ở mức phù hợp và dễ hạ lãi suất hơn. Nhận định của ông về điều này?
- Lạm phát ở Việt Nam mang tính thời vụ, thường tăng cao vào cuối năm và Tết Nguyên đán, sau đó có xu hướng giảm. Vì vậy, ngoài yếu tố thời vụ, cần nhìn vào kỳ vọng thực sự của thị trường. Để ổn định bền vững hơn, đừng quá vội vã mà phải kiên trì, nhẫn nại ngay cả khi thị trường ổn định cao hơn và lạm phát giảm xuống.
* Xin cảm ơn ông!