Mô hình trồng chanh leo thí điểm mở Mường Lống - Kỳ Sơn - Nghệ An |
Nghịch lý cay đắng của… nông sản
Con đường nào nông sản của Nghệ An đi qua nhiều nhất? Đó là câu hỏi không khó trả lời khi mà nhiều năm qua, những mặt hàng như: lạc, lúa, ngô, sắn… và cả những loại trái cây như chanh leo, dứa, dưa hấu… đều đi chung một con đường: xuất lên phía Bắc và hướng hết vào các thị trường của Trung Quốc. Nghĩa là thị trường của chúng ta đang “bỏ trứng vào một giỏ” - dễ bán, dễ mua, nhưng cũng đầy cạm bẫy. Bằng chứng là năm nào người nông dân ở Nghệ An cũng kêu ca về cái nghịch lý: được mùa nhưng rớt giá, thậm chí là giá rớt rất thê thảm.
Đơn cử, năm 2013, nhiều huyện ở Nghệ An, cà rốt trồng hàng chục ha, đến vụ thu hoạch không có người mua, nông dân phải bán đổ bán tháo hay đứt ruột chấp nhận làm thức ăn cho gia súc hoặc đổ bỏ. Năm 2014, lại là quả su su 500 đồng/kg và thậm chí là 200 đồng/kg và đỉnh điểm là không có người mua, nên hàng chục tấn su su của nông dân thị xã Hoàng Mai cũng phải đem đi làm phân bón. Năm 2015 lại là câu chuyện ớt cay không có đầu ra ở huyện Anh Sơn, hay là hàng trăm tấn dứa ở Quỳnh Lưu bị ứ đọng. Và ngay đầu năm 2017 này, cả vựa rau lớn ở Quỳnh Lưu lại bị mất giá, nông dân lại phải đổ ra đồng, chất đống cho trâu bò ăn… Chúng tôi đã chứng kiến có những người nông dân khóc ngay trên thửa ruộng của mình.
Tình trạng được mùa mất giá có thể năm này xảy ra với loại cây trồng này, sang năm lại với cây trồng khác. Nông dân và các cấp chính quyền cũng đã rất tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và tích cực trong sản xuất theo hướng tạo ra hàng hóa tập trung. Tuy nhiên nút thắt của vấn đề lại nằm ở chỗ là thiếu đầu ra ổn định cho nông sản. Từ thực tế đó, hiện nay cũng có một số cá nhân, địa phương tự tìm đầu ra cho nông sản trước khi gieo hạt giống xuống đất. Mô hình trồng dưa lưới giống Nhật Bản trong nhà lưới của ông Trương Văn Hòa ở xã Hội Sơn, huyện Anh Sơn là một ví dụ. Ngay khi mới manh nha cho dự án này, ông Hòa đã khảo sát thị trường ở Hà Nội và tính toán kỹ cho đầu ra của quả dưa và những nông sản khác do ông sẽ gieo trồng trong thời gian tiếp theo. Theo đó khi nông sản đến kỳ thu hoạch, khách hàng đã đến tận nơi để thu mua. Tuy nhiên đây chỉ là mô hình rất điển hình về ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn trong sản xuất nông nghiệp. Và không phải người nông dân nào cũng làm được như vậy!
Hay như ông Phan Văn Hòa - Giám đốc Công ty TNHH Khoa học công nghệ Vĩnh Hòa cho biết, người dân Nghệ An thường gọi gạo từ giống lúa NA6 là gạo Vĩnh Hòa nổi tiếng ở Yên Thành. Nhưng lâu nay chúng tôi vẫn đang tự thân vận động, các ngành vẫn chưa có phương án nào cụ thể để giúp nông dân trong khâu tiêu thụ hay bao tiêu sản phẩm. Thậm chí là chưa có quy hoạch cụ thể vùng trồng giống lúa này. Hiện bà con cũng chỉ mới mạnh ai nấy làm.
Được biết, loại gạo này gần đây cũng được một số đại lý thu mua để xuất khẩu sang thị trường Úc, Hàn Quốc hay Nhật Bản…. nhưng đó cũng chỉ là hình thức kinh doanh nhỏ lẻ của các tiểu thương. Câu chuyện đầu ra cho nông sản là điều mà rất nhiều nông dân lo lắng, trăn trở.
Sản xuất đến tiêu thụ còn nhiều… “vấn đề”
Ngoài việc nông sản Nghệ An - nông dân đang “mạnh ai nấy làm” thì theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, phần lớn các cơ sở chế biến nông sản trên địa bàn tỉnh đều đang làm thủ công, truyền thống. Các sản phẩm chế biến đa số có giá trị kinh tế thấp, chưa tạo dựng được thương hiệu riêng, dẫn đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa chế biến nông, lâm, thủy sản trên thị trường chưa cao.
Nhiều vùng nông sản hàng hóa lớn như ngô, lạc, lúa, diện tích lúa chất lượng cao đã chiếm 1/3 (hình thành được nhiều vùng nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu như: vùng nguyên liệu chè khoảng 8.000ha ở các huyện: Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông, chè Tuyết San chất lượng cao ở Kỳ Sơn; vùng cao su ở Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Thái Hòa, Quỳ Hợp, Anh Sơn... vùng mía nguyên liệu 26.000ha ở các huyện: Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Anh Sơn... vùng lạc xuất khẩu trên 20.000ha, vùng nuôi trồng thủy sản tập trung gần 2.000ha) và nông nghiệp tăng trưởng khá, nhưng thiếu bền vững, khả năng cạnh tranh thấp; cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm.
Được mùa rớt giá, nông dân mang rau đổ đầy ruộng |
Bên cạnh đó, tuy ngành nông nghiệp tốc độ tăng trưởng bình quân ở mức 4 - 5%/năm, nhưng dễ bị ảnh hưởng do thiên tai, dịch bệnh và biến động của thị trường. Cơ cấu kinh tế đã có chuyển biến nhưng còn chậm, trồng trọt thuyền thống vẫn còn chiếm tỷ lệ cao; bảo quản, chế biến sau thu hoạch còn kém phát triển. Phần lớn nông sản tiêu thụ và xuất khẩu ở dạng sơ chế, thô nên giá trị gia tăng rất thấp, chưa có thương hiệu.
"Đặc biệt, sợi dây liên kết giữa 4 nhà còn nhiều hạn chế trong việc tạo ra được chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ nông sản. Từ đó sản phẩm nông sản của Nghệ An nhiều nhưng chưa “mạnh”, nông sản xuất khẩu đang rất hạn chế, thiếu tính cạnh tranh trong hội nhập. Tình trạng sản xuất thâm canh, sử dụng quá nhiều phân bón, hóa chất, thuốc bảo vệ, chất kích thích sinh trưởng và tạo ra nhiều chất thải của các vùng chăn nuôi tập trung... tạo ra dư lượng các chất độc hại trong nông sản thực phẩm, làm tăng khả năng chống chịu và đột biến của sâu bệnh; tình trạng ô nhiễm môi trường đang gia tăng, đặc biệt ở các làng nghề và chưa có giải pháp hữu hiệu để khắc phục. Thực trạng đó đòi hỏi phải đổi mới sản xuất trong nông nghiệp, nhằm tạo ra hàng hóa đáp ứng cạnh tranh”, một chuyên gia kinh tế nhận định.