Người dân làng Chuông mua khung làm nón |
Vào những ngày cuối năm, chúng tôi tìm về làng Chuông, tiếng là làng nghề nhưng là đặc thù của nghề nên không có sự ồn ào, tấp nập. Theo lời kể của bà Phạm Thị Hòa - người đã có gần 60 năm tuổi nghề: Nghề làm nón tại làng Chuông đã có từ rất lâu đời, thời điểm phát triển rực rỡ nghề còn vượt ra khỏi địa bàn thôn, xã và lan sang các xã bên cạnh. Cũng đã có một thời, mỗi phiên chợ làng Chuông nườm nượp xe về thu mua nón rồi tỏa đi khắp các tỉnh, thành phố.
Nghề làm nón cũng rất công phu, vật dụng gồm: Lá, chỉ và khung nón. Lá được lấy từ hai loại cây giống như cây cọ, mọc ở những vùng đồi núi. Với loại lá non còn búp, chưa xòe ra hẳn được cắt về phơi khô hai đến ba nắng, rồi đem ủi phẳng dùng để khâu nón thường, nón quai thao phải dùng loại lá già, dài, rất khó tìm. Công đoạn làm khung được cho là khó nhất bởi nó quyết định đến độ tròn và sự bền chắc của một chiếc nón. Khung nón được làm bằng tre ngâm kỹ, vừa dẻo dai lại rắn chắc, gồm 16 vành tròn được ghép nhỏ dần. Ðây được coi là công thức bắt buộc đã được người thợ làm nón tại làng Chuông sử dụng qua bao đời.
Ông Lưu Duy Dần - Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam: Nghề làm nón được duy trì, trong đó có sự hồi sinh của chiếc nón quai thao là sự may mắn không chỉ của riêng làng Chuông mà còn của cả đất nước khi đã gìn giữ được một trong những nét văn hóa đẹp của dân tộc. |
Trong thời đại ngày nay, dưới sức cạnh tranh từ các sản phẩm sản xuất công nghiệp khác, nón lá dần mất đi vai trò. Quan trọng hơn, thu nhập từ nghề hiện không cao. Với nón lá thường có giá từ 30 - 80 nghìn đồng/chiếc, nón quai thao giá cao hơn từ 100 - 120 nghìn đồng/chiếc, nhưng làng Chuông hiện chỉ còn một vài người biết làm nón quai thao do kỹ thuật khó và được khôi phục chưa lâu.
Tuy thu nhập từ nghề không cao (chỉ khoảng trên dưới 100 nghìn đồng/ngày) nhưng người dân làng Chuông vẫn bền bỉ giữ nghề. Ngoài những người hơn nửa đời người đã gắn bó như bà Hòa, lớp thợ trẻ của làng cũng rất say nghề. Nói về điều này, chị Nguyễn Thị Hiền cho hay: Bố mẹ chị đã được truyền nghề làm nón từ ông, bà nội. Ðến nay, chị và các em vẫn tiếp tục làm nghề. Nghề khâu nón không kén người làm, trẻ con, người già đều có thể làm được đã giúp giải quyết việc làm cho người dân trong làng, nhất là mỗi dịp nông nhàn. Trước đây, những người làm nón phải cất công lặn lội đi mua nguyên liệu về sản xuất rồi đem ra chợ làng tiêu thụ. Hiện nguyên vật liệu phục vụ cho nghề được chuyển về tận làng theo đặt hàng, rất thuận tiện cho sản xuất. Về cơ bản nón làng Chuông vẫn duy trì kỹ thuật cũ từ thời ông cha để lại, tuy nhiên do thay đổi về quan điểm thẩm mỹ người thợ làng nghề đã sớm cải tiến mẫu mã. Ngoài những kiểu mẫu truyền thống, nón làng Chuông hiện đã có thêm nhiều kiểu dáng khác như nón chóp dứa, nón tơi… với những kỹ thuật từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với trình độ của nhiều lao động.
Chị Nguyễn Thị Yến - một trong những thợ trẻ hiếm hoi của làng Chuông biết làm nón quai thao cũng chia sẻ: Trước khi về làng Chuông làm dâu, tôi chỉ biết khâu nón thường, giờ chuyển sang khâu nón quai thao, khó hơn do phải thực hiện nhiều công đoạn rắc rối. Nón quai thao còn khó ở chỗ phải căn dáng nón sao cho tròn, đường khâu thẳng, trang trí không lộ vết. Tuy nhiên, làm nón quai thao cũng rất hấp dẫn, mỗi loại, mỗi kích thước phải dựa vào khung và có cách khâu khác biệt, không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn là nghệ thuật nữa. “Làng chẳng còn mấy người làm được nón quai thao, tôi đã được học thì sẽ cố gắng theo để giữ nghề. Sau này có ai muốn học tôi sẵn sàng truyền lại” - chị Yến vui vẻ nói.
Không chỉ được sử dụng như một vật dụng hàng ngày, nón làng Chuông còn được xuất khẩu, tham gia những triển lãm lớn nhằm quảng bá văn hóa truyền thống của dân tộc.