Người mang 18kg vàng xuyên Đông Dương
Xã hội 17/02/2015 16:06 Theo dõi Congthuong.vn trên
Giữa tháng 6/1948, Nguyễn Như Kim (khi đó đang phụ trách Đài Phát thanh ở Bắc Kạn) được gọi về Chợ Chu (Thái Nguyên), người đại diện Bộ Quốc phòng giao cho anh nhiệm vụ (phần kỹ thuật của Đài phát thanh lúc này do Bộ Quốc phòng quản lý): Sang Thái Lan, liên hệ với cơ sở Việt kiều yêu nước bên đó mua những linh kiện vật tư cho Đài. Kèm theo là một danh mục yêu cầu mua một số lượng lớn máy thu phát quân sự, thuốc men, dụng cụ y tế, sách cho bậc đại học…
Người đại diện Bộ giao cho anh giấy tờ cần thiết rồi sang buồng bên bê về một gói vuông bọc vải bạt, có vẻ khá nặng, đặt trước mặt anh: “Đây là số vàng cần thiết cho nhiệm vụ của anh!”. Bộ Quốc phòng chỉ cử thêm một người bảo vệ đi cùng anh vào đến Đô Lương. Đến đây, một mình anh sẽ nhập vào đoàn cán bộ qua Lào công tác.
Việc đầu tiên, anh tìm mua được chiếc xe đạp Stéc-linh còn tốt, lấy giây thép cột chặt gói vàng vào poóc-ba-ga. Rồi hai anh em áo nâu, nón lá, cưỡi hai con “chiến mã” lên đường, len lỏi qua những vùng xôi đỗ địch hậu Sơn Tây, Xuân Mai, rồi xuôi Cống Thần, Chợ Đại vào Thanh Hóa.
Đầu tháng 8/1948, hai anh tới Đô Lương, Kim nhập với đoàn cán bộ qua Lào. Sau chuỗi ngày dài đói khát, vất vả, gần như chỉ ăn gạo rang và nước sông, họ đến với sự đón tiếp nồng hậu của Việt kiều. Rồi Kim tách ra, về Băng Cốc. Ông Nguyễn Đức Quỳ (sau này là thứ trưởng Bộ Văn hóa)- đại diện tổ chức Việt Kiều ở Thái Lan- đón Kim về sống ở một villa lớn. Lúc này, Nguyễn Như Kim mới cất được gánh nặng: Khối vàng nộp cho tổ chức. Kim nhớ lúc giao nhận vàng ở Việt Bắc hình như không có sự cân đếm, ký nhận gì. Mấy hôm sau, Kim bắt đầu liên hệ, mua sắm, cần tiền đến đâu rút ra đến đó.
Sau nhiều tháng mua sắm đủ số hàng cần thiết, họ tính toán cách mang về Việt Nam. Sau nhiều tính toán, phương án đi đường thủy được quyết định. Tổ chức Hàng hải Nam Bộ thuộc khu 9 đã nhận được yêu cầu của tổ chức ở Thái Lan. Một đội thủy thủ được thành lập, khoảng 20 chục người. Họ chọn mua một con tàu dài khoảng 30 mét, ngang chừng 8 mét, trọng tải độ trăm tấn, được gắn thêm hai máy. Con tàu có tên Prasamud, biển đăng ký Thái Lan, sau anh em đổi tên là tàu Sông Lô.
Suốt 2- 3 tháng, nhiều chiếc ghe chở những gói bọc của Kim giấu lẫn vào hàng hóa khác, chuyển từ Băng Cốc ra cảng, dài 40 cây số, chuyển lên một thuyền buồm, chở đi đến một địa điểm an toàn ven biển, giáp Campuchia.
Đầu tháng 6/1949, mọi việc chuẩn bị hoàn tất. Tàu Sông Lô nhẹ nhàng rời bến ở Băng Cốc, hướng ra biển với lý do… chạy thử máy để che mắt mật thám Pháp ở Thái Lan.
Tàu đỗ ở ngoài đảo Cochang (Campuchia) ban đêm. Những thuyền con chở hàng từ kho ra, bốc lên tàu.
Tàu Sông Lô đã qua vịnh Thái Lan, qua Hòn Khoai vào Năm Căn. Cánh hàng hải Nam bộ toàn những dân lão luyện đi biển của cảng Sài Gòn, từ Năm Căn trở đi, họ thuộc biển nhà như trong lòng bàn tay, tàu dừng ở sông Tam Giang chừng một tháng, đưa thêm gạo, thuốc men của Nam bộ gửi về Việt Bắc. Máy móc được rà soát, bảo dưỡng thật chu đáo, chuẩn bị cho đoạn đường sinh tử.
Tàu Sông Lô chở hàng vòng qua Côn Đảo, hướng lên phía Bắc. Các anh cứ lợi dụng đêm tối, cố gắng đi xa bờ để tránh địch phát hiện.
Một hôm, vào khoảng 3 giờ chiều, thuyền trưởng Hóa chỉ vào hải đồ rồi hất đầu về bên trái: “Đà Nẵng đó! Đêm nay ta sẽ vào bến Thủy. Khi nào qua Hòn Mê sẽ có tín hiệu ra đón tàu!”. Anh chưa nói dứt lời thì một chiếc máy bay lướt qua, bay khá cao. Một lúc sau, nó lại vòng qua rồi trở lại đất liền, anh em xôn xao, sợ bị phát hiện. Thuyền trưởng quyết định chưa vào Bến Thủy, tầu Sông Lô điện về cho Bộ Quốc phòng báo tin và xin lệnh. Một tuần sau, biển yên tĩnh, Bộ Quốc phòng lệnh cho tàu về Bến Thủy.
Tàu đang đi, thuyền trưởng bỗng kêu lên: “Báo động! Có tàu địch”, cho tàu quay lại, mở hết máy, nhưng đã quá chậm, 4 tàu địch lao nhanh đến từ 4 hướng. Thuyền trưởng, bí thư chi bộ riệu tập thủy thủ bàn cách đối phó. Rõ ràng với sự dàn sẵn của tàu địch, tàu ta không thể thoát khỏi vòng vây. Chỉ còn cách thực hiện phương án cuối cùng. 20 phuy xăng được đổ khắp tàu như một thùng thuốc súng chờ nổ. Anh em thủy thủ mỗi người chỉ mặc một chiếc quần xà lỏn. Nguyễn Như Kim nhìn khắp con tàu, công sức của ông và bao nhiêu người cả một năm trời chuẩn bị chỉ vài phút nữa là… chìm xuống biển.
Chợt nhoàng sáng, tàu lắc mạnh, ông và thuyền trưởng văng xuống biển. Tàu Sông Lô bùng lên một khối lửa, vẫn lao đi, rồi chìm dần. Bốn chiếc tàu Pháp bám theo nhưng không dám tới gần. Giặc bắt các anh lên tàu chiến. Điểm lại, chỉ có 1 thủy thủ hy sinh.
Mặc dù bị địch tra tấn dã man, Kim chỉ khai tên Nguyễn Văn Hai, đi buôn gạo. Sau hồ sơ mật thám ở Hà Nội cũng cho chúng biết ông là ai, từng tốt nghiệp khoa Vật lý đại cương ở Hà Nội năm 1946. Ông đi tù một năm tại các trại tù binh Nam Bộ. Giặc Pháp thấy ông là một trí thức được đào tạo thời Pháp thuộc, nên đưa ông về Hà nội, hứa sẽ thả ông, nếu ông nhận lời sang Pháp học tiếp. Nguyễn Như Kim tìm cách liên hệ với tổ chức và “tương kế tựu kế”, ông được nhận nhiệm vụ mới: Sang Pháp, trau dồi một kỹ năng chuyên môn, chờ lệnh.
Sang Pháp, ông học chuyên sâu về điện tử. Ngày làm việc tự kiếm sống, tối học. Thông thường, sinh viên Pháp muốn tốt nghiệp kỹ sư công nghệ điện tử phải thi lần lượt 5- 6 chứng chỉ, mỗi chứng chỉ phải học 1 năm. Với vốn lý thuyết đã có, anh thi một năm hai chứng chỉ làm các giáo sư Pháp ngạc nhiên. Sau khi tốt nghiệp với tấm kỹ sư công nghệ điện tử, ông được mời làm trợ lý cho một giáo sư nổi tiếng, ăn lương chính thức của Bộ Giáo dục Pháp. Đến khi hòa bình lập lại trên miền bắc Việt Nam, Nguyễn Như Kim liên hệ với ông Tạ Quang Bửu, người đã đặc phái anh sang Pháp học. Hóa ra anh chẳng hề bị quên lãng, tổ chức vẫn nhận được tin tức về anh. Giáo sư Hồ Đắc Di nhân một chuyến sang Pháp, đã chuyển lời mời ông về nước của ông Tạ Quang Bửu, với mấy dòng thư, đại ý: Trong nước vừa thành lập trường Đại học Bách khoa, đang cần một giáo sư chủ nhiệm khoa như ông.
Ông cùng vợ về nước, ông nhận công tác mới: Chủ nhiệm khoa Điện- Điện tử trường Đại học Bách khoa. Về nước được vài tháng, ông được phục hồi Đảng tịch. Nhiều bạn đồng nghiệp ngỡ ông mới được kết nạp Đảng nên ngạc nhiên về sự đối xử với Việt kiều mới về nước, không hề biết ông đã làm gì trước đó.
Có những thông tin không thể bỏ qua: Số vàng được chuyển xuyên Đông Dương là bao nhiêu? Ai là người nhận vàng từ ông Nguyễn Như Kim mang sang Thái Lan?
Người thay mặt tổ chức Việt kiều yêu nước ở Thái Lan năm 1948 trực tiếp nhận số vàng do Nguyễn Như Kim giao, đó là cụ Trần Hữu Quảng- Chủ nhiệm Hợp tác xã thuốc dân tộc Chùa Bộc (Hà Nội), đã hơn 90 tuổi. Cụ Quảng chứng nhận với người viết bài này: Hồi đó, cụ Quảng phụ trách Thanh niên Tổng hội Việt kiều cứu quốc ở Thái Lan. Cụ trực tiếp thu nhận 18kg vàng từ Nguyễn Như Kim, toàn vàng lá sư tử.