Không nhiều hướng dẫn viên biết ngoại ngữ hiếm |
“Khoảng trống” khó lấp đầy
Theo thống kê, cả nước có hơn 9.920 hướng dẫn viên (HDV) quốc tế, tuy nhiên HDV du lịch thông thạo những ngôn ngữ hiếm của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, châu Phi, Ả Rập… gần như rất ít hoặc không có.
Để khuyến khích sinh viên theo học các ngoại ngữ hiếm cần những định hướng cụ thể từ nhà trường và sự phối hợp của doanh nghiệp. Đặc biệt, cần có các chương trình hỗ trợ thiết thực đối với sinh viên các môn ngoại ngữ hiếm. |
Trước sự khan hiếm HDV của một số thị trường, không ít doanh nghiệp lữ hành đã phải thuê HDV không có thẻ, không đạt chất lượng hoặc sử dụng HDV là người nước ngoài để phục vụ khách du lịch.Tình trạng này đang dẫn đến hiện tượng HDV “chui” xuất hiện ngày càng nhiều vào mùa cao điểm khách quốc tế. Trong đó, có một số người nước ngoài lâu năm ở Việt Nam, thông thạo trong dịch vụ, đã tự tổ chức tour, hướng dẫn khách. Điều này khiến cho nội dung thông tin về văn hóa, lịch sử Việt Nam bị truyền tải sai lệch, khó kiểm soát.
Tình trạng “khát” HDV ngoại ngữ hiếm và chất lượng HDV đã được báo động từ lâu, nhưng đến nay ngành du lịch vẫn loay hoay chưa có biện pháp để tăng số lượng và chất lượng HDV, đáp ứng đòi hỏi của tình hình phát triển mới. Ông Nguyễn Minh Mẫn - Giám đốc Makerting Công ty Du lịch TST Tourist - cho rằng, nguyên nhân do các trường đào tạo du lịch chủ yếu tập trung vào các nghề điều hành tour du lịch, quản trị nhà hàng khách sạn, hoặc nghề HDV nhưng chỉ tập trung ở môn tiếng Anh, Pháp. Đặc biệt, Luật Du lịch quy định, điều kiện để được cấp thẻ HDV du lịch quốc tế là phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ; có trình độ cử nhân chuyên ngành hướng dẫn du lịch trở lên; nếu tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác thì phải có chứng chỉ nghiệp vụ về hướng dẫn du lịch do cơ sở đào tạo có thẩm quyền cấp… đã thành rào cản đối với người biết ngoại ngữ hiếm.
Đào tạo theo nhu cầu thị trường
Để lấp khoảng trống về HDV, theo các chuyên gia, ngoài sự chủ động của doanh nghiệp, phía nguồn cung ứng nhân lực là các trường đào tạo và cơ quan quản lý nhà nước cần định hướng đào tạo mang tính chiến lược, bám sát với thực tế. Đồng thời, cần cơ chế phối hợp giữa doanh nghiệp và nhà trường trong việc tạo điều kiện kiến tập, tham quan môi trường kinh doanh và làm việc của doanh nghiệp; các trường đào tạo nên quan tâm đến chính sách đào tạo theo đặt hàng, phù hợp với nhu cầu nguồn nhân lực của ngành du lịch hiện nay. Đặc biệt, khối lượng kiến thức trong nhà trường cần có tính thực tế nhiều hơn, trong đó, giảng viên phải có sự kết hợp giữa kiến thức nền với diễn biến kinh doanh trong ngành. Điều này sẽ giúp sinh viên có kiến thức nhiều hơn, để có thể bắt nhịp nhanh với đòi hỏi của doanh nghiệp.
Đối với cơ quan quản lý, trước hết phải định hướng nhu cầu phát triển của ngành, để từ đó có quy hoạch đào tạo dài hạn theo nhu cầu phát triển thị trường, phân vùng địa lý, mở rộng quy mô thông qua các dự án đầu tư du lịch. Tránh tình trạng đào tạo dàn trải, kém hiệu quả, chạy theo số lượng mà không tập trung chất lượng, nhu cầu của thị trường. Đại diện nhiều doanh nghiệp cho rằng, cơ quan quản lý cần linh hoạt hơn khi đưa ra quy định về trình độ với HDV để đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường.