Ảnh minh họa |
Theo Bộ Công Thương, hiện nay, doanh nghiệp xuất nhập khẩu (XNK) vẫn chủ yếu mua CIF (giá tại cửa khẩu của bên nhập) bán FOB (giá tại cửa khẩu của bên xuất), chỉ khoảng 30% doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu quen với dịch vụ logistics thuê ngoài, số còn lại vẫn tự làm. Điều này làm ảnh hưởng hiệu quả dịch vụ logitics cũng như thúc đẩy logistics phát triển. Bên cạnh đó, doanh nghiệp làm dịch vụ logistics chủ yếu là vừa và nhỏ. Gần đây, số lượng doanh nghiệp gia tăng làm cho dịch vụ logitiscs cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, năng lực và thị phần doanh nghiệp Việt Nam chậm chuyển biến. Số lượng doanh nghiệp logistics Việt Nam hiện nay khoảng 1.300 doanh nghiệp, chiếm 25% thị phần, vốn điều lệ phần lớn khoảng 4-6 tỷ đồng và chiếm khoảng 72% lao động nhưng được đào tạo bài bản chỉ chiếm 5-7%. Số doanh nghiệp FDI khoảng 4-5% nhưng chiếm 75% thị phần.
Thời gian qua, cũng chưa có sự gắn bó đầy đủ giữa doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp XNK, khiến doanh nghiệp XNK chịu chi phí cao, thời gian kéo dài, giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Ngoài ra, hạ tầng kết nối các khu vực cảng với khu vực tập trung hàng hóa còn yếu; thiếu trung tâm giao nhận hàng hóa và dịch vụ chuyên dụng. Từ đó, đặt ra yêu cầu phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng quốc gia đồng bộ, hợp lý; xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng.