Minh họa: Hà An |
Câu nói này làm không khí bỗng chìm đi và sẽ chìm hẳn vào dòng thời gian không ai muốn lật xới lại nữa nếu như không có một vị khác, vẻ mặt trầm tĩnh ngồi suốt từ đầu đến giờ mới lên tiếng. Mà cũng lên tiếng khẽ khàng như một lời tâm sự thôi chứ không có ý tranh cãi, phản biện căng thẳng gì. Mà lại có chiều tán thành nữa.
Anh bảo nói như vậy cơ bản là đúng. Cái thời non sông vào kỳ “nước sôi, lửa bỏng” ấy, con người có mấy khi mang những khái niệm to lớn, cao siêu ấy làm hành trang lên đường hoặc lôi ra đặt chình ình trước nòng súng đâu, đặt nặng quá, đầu ruồi trĩu xuống, đạn cày vào đất hết còn bắn chác cái nỗi gì, mà nếu có thì nó đã lặn sâu vào bên trong mạch máu, lục phủ ngũ tạng con người. Thực ra, anh nói tiếp, lạ lắm, phải chăng cái lịch sử nước mình là lịch sử trận mạc cho nên dân tộc mình dẫu không muốn cũng là dân tộc trận mạc cho nên mỗi khi nước nhà có biến là lại như có ngọn gió linh thiêng, hào sảng bốn ngàn năm nó cứ thổi thốc tháo sau lưng các thế hệ khiến họ không thể yên vị ngồi lại phía sau mà nhất loạt lao ra phía trước như một sự mặc nhiên, một cảm hứng trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương mà không cần phải hối thúc, hiệu triệu gì cả. Đó chính là cả một sức mạnh tinh thần vô song mà không phải ở đâu cũng có.
Thấy mọi người có vẻ lắng nghe, lại có cả những cái đầu nhẹ gật gù, anh tâm sự thêm một chút chuyện riêng tư của mình để minh họa cho cái cảm nhận không muốn nói ra, không tiện nói ra ấy. Đó là động cơ ra đi vượt Trường Sơn vào trận thời ấy, ngoài những động cơ cứng như lý tưởng chính trị, hoài bão non sông, lòng yêu nước, chí căm thù địch… nó còn tồn tại những động cơ mềm, rất mềm, như tình yêu, như gió nắng, như cuống rạ đồng chiều, như mắt nhìn của em.
Mắt nhìn, đúng thế, mắt nhìn con gái có thể đổi thay được cả một chí hướng, một số phận nam nhi. Anh nói, hồi ấy mình có một cô người yêu đẹp lắm hoặc cái đẹp trong thời chiến mang tính ảo giác thật khác với cái đẹp giữa đời thường, đẹp thẳm sâu, đẹp hun hút, nước da xanh xao vì thức đêm, vì thiếu chất, một nước da con gái thời chiến đẹp kiêu hãnh và tội tình. Anh lại không nằm trong cái diện phải nhập ngũ vì nhà đã có hai, ba người anh là liệt sĩ rồi. Anh được ở lại hậu phương trong khi bạn bè gần như đi hết, đi đến nỗi làng xóm, phố phường bỗng vắng teo mà đó đây chỉ thấp thoáng còn lại những bóng hình trẻ thơ, người già và phụ nữ. Anh ở lại, cô gái đang yêu thấy mình được hạnh phúc nhưng lạ quá, lạ như chiều sâu thăm thẳm tâm hồn con gái Việt, cứ mỗi sáng gặp nhau, lại dường như thấy ánh mắt em nhìn mình có chiều thấp đi, lùn đi một chút, như mình có điều gì không đúng, không phải với bạn bè, với non sông xã tắc. Ánh nhìn ấy bỗng thành ám ảnh, thành khôn nguôi, vậy thì đi, không phải đi cũng tình nguyện xin đi, đi để mắt nhìn của em ở lại được yên tĩnh. Nguyên cớ xông pha chỉ đơn giản vậy thôi và anh đi suốt mười năm liền, suốt mười năm ấy anh cố cầm súng như một người tử tế để nếu còn sống trở về có thể dám nhìn thẳng vào mắt em, cũng đơn giản vậy thôi. Chỉ có điều, tất nhiên, âu cũng là quy luật chiến tranh, là chuyện tình xa cách trong chiến tranh, khi trở về em đã không chờ đợi được, em đã là của người khác, nhưng không sao, vẫn phải cám ơn đôi mắt hun hút của em, của cô gái hậu phương tần tảo và lam lũ đã trở thành một điểm tựa tinh thần cho anh đi hết được những cánh rừng trận mạc tưởng chừng có lúc đã gục ngã không gượng dậy nổi.
Cám ơn cái nhìn với nước da xanh xao lãng mạn của em, cô gái hậu phương thời chiến!
Tâm sự của anh không dừng lại ở đó. Anh nói thêm cái nguyên cớ sâu kín hơn để anh có thể bỏ tất cả, bỏ đại học, bỏ người yêu ra đi để rất có thể một mai không trở lại. Lần này là nụ cười con gái. Đó là nụ cười chiến thắng của người tù chính trị trong nhà lao kẻ thù, nụ cười Võ Thị Thắng lúc ấy đang tràn ngập trên các mặt báo, các phương tiện truyền thông. Đấy là một khuôn mặt đẹp, thanh thoát nét sinh viên, mái tóc thề cắt ngắn, hai cánh tay bị trói giật ra sau, một số tù chạy qua khuôn ngực thiếu nữ no tròn, và giữa bạt ngàn nón sắt nhà binh dữ tợn, mắt chị mở to nhìn thẳng và trên môi thoáng nở một nụ cười kiêu hãnh và ắp đầy nữ tính.
Không là cái gì khác, chính cái nụ cười đó đã như một sự đánh thức dịu dàng và mãnh liệt, một tiếng kèn xung trận, một lời hiệu triệu rền vang hơn mọi lời hiệu triệu khiến cho lồng ngực các chàng trai, trong đó có anh xao động, không bình yên được nữa. Cuộc hành binh vào chiến trường, anh nói, không chỉ dừng lại ở ý nghĩa Giải phóng miền Nam, ở nghĩa làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, mà sâu hơn, nó còn là cuộc viễn chinh để bảo vệ cái đẹp, bảo vệ nụ cười đang sắp bị đối phương hủy hoại.
Một nụ cười tù ngục cũng xanh xao và lãng mạn đến khôn cùng.
Đó là động cơ chính, một động cơ mềm, lãng mạn và dường như chính sự lãng mạn này đã làm cho cuộc trường chinh kháng chiến của những binh đoàn ra trận với vô vàn gian truân được vững bền, dẻo dai hơn.
Rồi cả bắp chân cô bác sĩ dân chính rong ruổi trên đường Trường Sơn, quần phải xắn cao cho khỏi ngoắc vướng dây rừng nữa. Đôi bắp chân mịn trắng như cặp lộ tiêu giữa đại ngàn vẫy gọi đoàn quân mải miết đi về phía trước. Cùng với lương khô và sốt rét, đôi bắp chân em cứ mỗi sáng hành quân lại xanh dần theo màu lá rừng.
Đôi bắp chân con gái Trường Sơn một thời đi đánh Mỹ xanh xao và lãng mạn.
Mắt nhìn của em, nụ cười của người nữ anh hùng, đôi bắp chân con gái đi dọc mái nhà Tây Nguyên đã trở thành một tình yêu, một lẽ sống, một sức mạnh tinh thần, một lý do vĩnh cửu cho những con người đi thực thi nghĩa cả của non sông, trong đó có anh, một cựu chiến binh lúc này đã về già.
Và ánh mắt kia, nụ cười ấy giờ đây cũng đã đi theo chủ nhân của nó về cõi vĩnh hằng. Cuộc đời dài lắm nhưng cuộc đời cũng chóng vánh làm sao. Thế gian còn muôn nẻo bừa bộn, cuộc sống còn muôn nỗi khó khăn, lòng người vẫn khôn dò, hành tinh vẫn còn rất nhiều bất trắc nhưng ánh nhìn ấy, nụ cười kia vẫn còn đằm mãi, sáng mãi trong tâm tưởng mọi người, trong tâm tưởng anh, người kể chuyện này như một điểm nhấn nhân văn, một vỉa tầng trầm tích cho mọi chông gai đang đón đợi ở phía trước.
Người lính già ngừng lời, con người vừa phát ra cái lập luận ráo hoảnh, tưng tửng kia cũng không nói gì thêm nữa mà để nhường cho một câu hỏi nhức nhối thoắt được đặt ra như một lẽ tự nhiên: “Nếu tới đây, với tất cả những hạn chế ở xung quanh, với tất cả những góc khuất chưa được hanh thông dẫu đã có nhiều tín hiệu đã hanh thông trong lòng người, trong đó có niềm tin, nếu tới đây non sông có biến, liệu thế hệ trẻ hôm nay có lên đường ra đi giữ gìn bờ cõi con Hồng cháu Lạc mang theo những động cơ mềm, cái mềm của xanh xao và lãng mạn, cái mềm nước chảy đá mòn như thế hệ cha ông?”.
Câu hỏi này tất cả buộc phải trả lời, cuộc đời buộc phải trả lời.