Trước hết, có thể thấy trong ba thập kỷ qua, 5 trong số 7 nước có lợi về giá trị gia tăng trong ngành sản xuất đều là các nước đang phát triển: Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Thái Lan. Trong số đó, có 3 nước thuộc ASEAN. Dựa vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo ngang giá sức mua (PPP), có 6 trong 7 nền kinh tế lớn nhất vào năm 2050 sẽ là những nền kinh tế mới nổi hiện nay: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Brazil, Nga và Mexico. Nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ lớn thứ ba, sau Trung Quốc và Ấn Độ. Các nền kinh tế của ASEAN như Philippines, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Indonesia sẽ nằm trong nhóm 25 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Những xu hướng này cho thấy thực tế có sự dịch chuyển và sẽ là thay đổi về động cơ tăng trưởng kinh tế từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển.
Thứ hai, nhìn vào các xu hướng hiệp định thương mại gần đây, sau khoảng 70 năm tự do hóa thương mại, một loạt các sự kiện mới đây cho thấy làn sóng quay ngược trở lại. Thương mại quốc tế chiếm tỷ lệ lớn trong GDP toàn cầu đã ngừng tăng trưởng trong thập kỷ trước và động lực cho tự do hóa thương mại ở cấp độ đa phương đã bị mất (cho đến khi Hiệp định Thuận lợi hóa thương mại có hiệu lực từ ngày 22/2/2017). Ngay cả các hiệp định thương mại khu vực, đôi khi được coi là các giải pháp thay thế cho tự do hóa đa phương, cũng đang bị chỉ trích nặng nề, kể cả ở Hoa Kỳ. Khi đàm phán các hiệp định thương mại khu vực, ASEAN đã hướng tới các chuỗi giá trị toàn cầu và khá tiến bộ trong việc thúc đẩy các hiệp định thương mại khu vực. ASEAN đã thành lập Khu vực Mậu dịch tự do năm 1992 trước khi Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) được hình thành. ASEAN cũng xây dựng Hiệp định Thương mại hàng hóa và Hiệp định Đầu tư toàn diện năm 2009, nhằm ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Những nỗ lực này giúp ASEAN trở thành trung tâm của mạng lưới sản xuất khu vực. Kết quả là xuất khẩu máy móc và phụ tùng đóng góp hơn 43% xuất khẩu hàng hóa ở các nước ASEAN trong thập kỷ qua.
hách thức chính với ASEAN ngày nay là bị mắc kẹt trong cái gọi là “hội nhập nông”. Thương mại nội khối ASEAN đã tăng từ 22% năm 2000 lên 24% năm 2015 là mức độ khá khiêm tốn. Nguyên nhân của điều này chủ yếu do (i) hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của các nước ASEAN đều là sản phẩm thay thế hơn là sản phẩm bổ sung, (ii) các quy tắc xuất xứ trong các hiệp định thương mại tự do ASEAN và ASEAN+1 vẫn quá phức tạp với các doanh nghiệp, và (iii) các biện pháp phi thuế quan (NTM).
Dù thuế suất bình quân của 10 nước ASEAN đã giảm từ 10,9% năm 2000 xuống 4,5% năm 2015, số lượng các NTM đã tăng gấp đôi, từ 1.634 biện pháp lên 5.975 biện pháp trong cùng giai đoạn. Trong số đó, có 29% các biện pháp SPS, 43% các biện pháp TBT, 16% các biện pháp xuất khẩu và 12% còn lại là các biện pháp khác. Số lượng các NTM không nhất thiết phản ánh mức độ bảo hộ thực sự, nhưng sự minh bạch chính là vấn đề đặt ra. Hơn nữa, mặc dù ASEAN giữ vai trò như một trung tâm trong mạng lưới sản xuất khu vực nhưng không thể là trung tâm khép kín như các mạng lưới sản xuất của Đức ở Trung và Đông Âu vì vẫn dựa vào đầu tư, thương mại và công nghệ từ Nhật Bản, Hàn Quốc và ở mức độ nào đó của Trung Quốc.
Nhận thức được sự phụ thuộc này, ASEAN đã và đang thúc đẩy thương mại và đầu tư với các đối tác thương mại chính. Với các FTA ASEAN+1 với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand, thương mại giữa ASEAN với các đối tác đã tăng từ 31% năm 2000 lên 43% năm 2015. ASEAN và 6 đối tác thương mại chính hiện đang trong quá trình đàm phán Hiệp định RCEP. Với các xu hướng dịch chuyển động cơ tăng trưởng kinh tế và hiệp định thương mại này, liệu ASEAN có thiết lập một hiệp định thương mại với Hoa Kỳ? Xem xét tình hình hợp tác hiện tại giữa Hoa Kỳ và các nền kinh tế ASEAN, cùng với các quan điểm chống lại toàn cầu hóa gần đây, dù Hoa Kỳ và ASEAN có thiết lập một hiệp định thương mại song phương hay không hoặc một hiệp định thương mại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đi chăng nữa, Hoa Kỳ và ASEAN cũng nên hợp tác chặt chẽ hơn trong hai lĩnh vực chính: (i) cải thiện các quy định đầu tư, tập trung vào cải thiện đăng ký tài sản, bảo vệ nhà đầu tư thiểu số và thực thi các hợp đồng ký kết; (ii) Cải thiện tính minh bạch của các NTM là trách nhiệm của các tổ chuyên gia, các quan chức chính phủ, hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ, nhằm đưa ra các quy định và thực thi tốt hơn, để quản lý các sản phẩm xuất nhập khẩu vì mục đích bảo vệ sức khỏe, an toàn và môi trường mà không gây trở ngại cho thương mại. Và điều này sẽ có lợi về tổng thể thương mại, đầu tư cho tất cả các bên.