Một cụm công nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh |
Quản lý chồng chéo
Hiện nay, quản lý CCN được thực hiện theo Quy chế quản lý CCN ban hành theo Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Sau hơn 5 năm thực hiện, quy chế đã lạc hậu với thực tế. Theo nhiều chuyên gia kinh tế, mặc dù được phân công rõ đầu mối nhưng quản lý CCN tồn tại nhiều bất cập, chồng chéo, thiếu tính phối hợp chặt chẽ, chế tài dẫn đến việc tuân thủ quy định không đầy đủ, đôi khi còn gây phiền hà cho doanh nghiệp.
Khá bức xúc vì những bất cập của chính sách gây khó cho địa phương trong việc quản lý CCN, ông Nguyễn Văn Minh- Phụ trách Phòng Quản lý công nghiệp (Sở Công Thương tỉnh Hải Dương)- cho biết, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không thống nhất. Đơn cử, theo quy định, với những CCN không có chủ đầu tư hạ tầng thì thành lập trung tâm phát triển CCN. Tuy nhiên, việc thành lập trung tâm như thế nào lại không có hướng dẫn, trong khi kinh phí của địa phương khó khăn, khó bố trí nhân lực. Tại một số CCN, UBND huyện vừa làm chủ đầu tư cơ sở hạ tầng vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước và kinh doanh là không phù hợp.
Tương tự như Hải Dương, việc quản lý CCN tại tỉnh Phú Thọ cũng rất lúng túng. Giám đốc Sở Công Thương Phú Thọ Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: Ở một số CCN, nhà đầu tư bên ngoài vào đầu tư, cơ quan quản lý không biết báo cáo, xin ý kiến ai. Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp chứng nhận đầu tư, giấy phép kinh doanh nhưng không quản lý hậu đầu tư, trách nhiệm giao Sở Công Thương quản lý. Điều này rất khó cho Sở Công Thương trong công tác quản lý bởi không nắm rõ ngay từ ban đầu việc đầu tư, hình thành CCN.
Cùng chung ý kiến, ông Lê Trọng Hân- Phó Giám đốc Sở Công Thương Thanh Hóa- thẳng thắn: Quản lý CCN theo Quyết định số 105 chưa cụ thể, thậm chí có những ràng buộc rất khó thực hiện. Sở Công Thương được giao quản lý về CCN nhưng rất nhiều nội dung không được tham gia. Có CCN đưa cả đường sắt, đường quốc lộ vào quy hoạch chi tiết?
Khó thu hút đầu tư
Thực tế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư chưa phù hợp, không tạo thuận lợi cả về mặt thủ tục hành chính, tài chính và vốn cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng và sản xuất, kinh doanh trong CCN. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc thu hút doanh nghiệp đầu tư kinh doanh hạ tầng CCN gặp khó khăn. Trong số CCN đã được thành lập, chỉ có 220 CCN do doanh nghiệp làm chủ đầu tư.
Thậm chí, tại CCN đã có chủ đầu tư, việc đầu tư cho hệ thống xử lý nước thải cũng rất khó khăn. Cả nước mới chỉ có 40 CCN có hệ thống xử lý nước thải chung, chiếm khoảng 6,5% CCN đã đi vào hoạt động. Nhiều địa phương chưa quan tâm chỉ đạo, đầu tư đúng mức hệ thống xử lý nước thải chung của các CCN, trong khi đó, theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường, CCN phải hoàn thành, đưa vào sử dụng công trình xử lý nước thải chung trước khi đi vào hoạt động. Đây là vấn đề rất khó khăn đối với địa phương, khi kinh phí đầu tư cho hệ thống xử lý nước thải khoảng 20- 30 tỷ đồng, trong khi ngân sách địa phương chỉ hỗ trợ được từ 2- 3 tỷ đồng.
Ông Nguyễn Văn Hoan- Giám đốc Công ty Nâng cao hạ tầng CCN (huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc)- phản ánh một thực tế: Nhà nước kêu gọi doanh nghiệp đầu tư vào hạ tầng CCN nhưng khi doanh nghiệp đi làm thủ tục gặp rất nhiều khó khăn. Công ty dù đăng ký đầu tư được 2 năm nhưng đến nay vẫn chưa có thủ tục đền bù và mặt bằng.
Quản lý CCN được thực hiện theo Quy chế quản lý CCN, ban hành theo Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Sau hơn 5 năm thực hiện, quy chế này đã bộc lộ nhiều bất cập, không phù hợp thực tế. |
TIN LIÊN QUAN | |
Kỳ II: “Loạn” quy hoạch | |
Kỳ I: Nhu cầu bức thiết |
Kỳ IV: Xây dựng cơ chế phù hợp