CôngThương - Nhiều tiềm năng phát triển kinh tế xanh
Việt Nam đang hội tụ những điều kiện thuận lợi rất tốt từ điều kiện tự nhiên, xã hội đến chủ trương, chính sách để tiến hành xanh hóa nền kinh tế. Tại diễn đàn “Kinh tế xanh trong bối cảnh phát triển bền vững ở Việt Nam” được tổ chức ngày 13/12/2011, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tài- Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường-Bộ TN&MT nhận định: Việt Nam có những lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, dân số, xã hội có thể làm tiền đề tốt cho Kinh tế xanh. Trong đó, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tài nhấn mạnh: “Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo tính kwh/m2/năm ở VN tương đối cao. Tiềm năng phát triển năng lượng sinh học, sinh khối từ gỗ, phụ phẩm công nghiệp… lên đến 15 triệu TOE. Tiềm năng thủy điện nhỏ cho phép xây dựng hơn 600 trạm với tổng công suất hơn 1.300 MW”.
Bên cạnh đó, Việt Nam có lợi thế so sánh về phát triển kinh tế đa dạng, dựa trên các hệ sinh thái để khai thác thế mạnh của vốn tự nhiên, đồng thời duy trì, phát triển các chức năng, giá trị của nhiều hệ sinh thái như: chè Tây Bắc, cây công nghiệp Tây Nguyên, lúa đồng bằng Sông Cửu Long… Việt Nam cũng có nhiều cảnh quan thiên nhiên đã được công nhận là di sản tự nhiên của thế giới sẽ mở ra cơ hội lớn để phát triển du lịch sinh thái.
Mặt khác, Việt Nam hiện là nước có mức thu nhập trung bình với tăng trưởng kinh tế luôn ở mức tương đối cao trong nhiều năm liền. Song song với đó, Việt Nam đã rất thành công trong việc thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ; chính trị xã hội ổn định; quan hệ quốc tế mở rộng…
Tất cả những yếu tố tích cực đó đang hội tụ lại thành bàn đạp cho Việt Nam xây dựng Kinh tế xanh.
Nhận diện và vượt qua thách thức
Để xây dựng mô hình phát triển kinh tế xanh, bền vững, bên cạnh việc phát huy lợi thế, Việt Nam hiện cần nhận diện những tồn tại, khó khăn nhằm đối mặt và tìm cách vượt qua.
Quá trình xây dựng, phát triển kinh tế những năm qua đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập. Mức thu nhập trung bình đầu người/năm ở Việt Nam chỉ hơn 1.000 USD, còn cách xa mức thu nhập trung bình trên thế giới (10.000 USD). Nền kinh tế đang dựa vào khai thác tài nguyên là chính, trong khi phân bổ và sử dụng “nguồn vốn tự nhiên” ấy kém hiệu quả. Chất thải gây ô nhiễm môi trường không quản và xử lý tốt, tốc độ gia tăng phát thải khí nhà kính ở vào hàng cao nhất trên thế giới. Ngoài ra, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, chậm đổi mới nên tiêu tốn nhiều năng lượng, kéo theo năng suất chất lượng thấp.
Không chỉ vậy, ngành sản xuất năng lượng sạch như năng lượng hạt nhân, năng lượng gió, mặt trời, sinh khối, địa nhiệt…chưa phát triển. Các ngành hỗ trợ, giải quyết vấn đề môi trường, dịch vụ môi trường, công nghiệp tái chế… còn yếu kém. Hơn nữa, một số ngành thân thiện với môi trường thì còn non nớt, luôn gặp khó khăn về nguồn vốn, đầu ra sản phẩm không ổn định, lợi nhuận thấp…
Nghiêm trọng hơn, đa dạng sinh học ở Việt Nam đang suy giảm mạnh, diện tích các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp, tài nguyên không tái tạo dần cạn kiệt, nguồn lợi thủy sản giảm dần…
Trước thực trạng đó, phát triển Kinh tế xanh tại Việt Nam cần được xem như là một chiến lược để đạt tới phát triển bền vững, một công cụ, mô hình để giải quyết những thách thức mang tính toàn cầu, trong đó có biến đổi khí hậu.
Nhưng làm sao để thực hiện Kinh tế xanh trong bối cảnh kinh tế thế giới khủng hoảng, nợ công tương đối cao, nguồn lực (vốn, công nghệ, nhân lực..) còn quá hạn chế ?
Trước câu hỏi đó, theo tiến sĩ Nguyễn Văn Tài, nên chăng Nhà nước nên gỡ bỏ các rào cản chính sách, xóa bỏ cơ chế bao cấp có hại cho môi trường, xây dựng môi trường pháp lý thúc đẩy hàng hóa, dịch vụ thân thiện với môi trường. Đồng thời, hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế xanh mũi nhọn thông qua trực tiếp đầu tư để phát triển “năng lực cung” hoặc thực hiện kích cầu cho hàng hóa và dịch vụ thân thiện với môi trường.
Hội nhập cùng thế giới
Ý tưởng phát triển kinh tế xanh được đưa ra từ những năm 70 của thế kỷ 20, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng năng lượng giai đoạn 1972-1973 gây ra những tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế thế giới. Chỉ sau hơn 40 năm, trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang là vấn đề nghiêm trọng, Kinh tế xanh đã trở thành mục tiêu cho mọi quốc gia từ phát triển, đang phát triển và chậm phát triển hướng tới.
Tiêu biểu cho các quốc gia phát triển, Hoa Kỳ dẫn đầu phong trào khi dành 95 tỷ USD trong gói kích thích kinh tế hơn 700 tỷ USD để phát triển các ngành năng lượng tái tạo và sản xuất tiết kiệm năng lượng với mục tiêu đến năm 2025, các loại năng lượng tái tạo sẽ chiếm 25% lượng phát điện. Đại diện cho châu Á, Hàn Quốc cũng được coi là một trong những nước đi đầu trong Kinh tế xanh. Ngay từ 2008, nước này đã đề ra chính sách “Tăng trưởng xanh, ít carbon” với nội dung tái cơ cấu kinh tế theo hướng chuyển sang mô hình phát triển dựa vào năng lượng tái tạo.
Trong khu vực ASEAN và Đông Á, một số quốc gia đã đưa Kinh tế xanh vào kế hoạch và chương trình phát triển quốc gia trung và dài hạn. Trung Quốc cũng dành khoảng 40% gói kích thích kinh tế vào các ngành liên quan đến Kinh tế xanh, trong đó tập trung vào sử dụng năng lượng hiệu quả và năng lượng tái tạo, cam kết sử dụng năng lượng tái tạo lên 16% vào năm 2020.
Trước làn sóng đó, bà Nguyễn Lệ Thủy - Vụ phó Vụ Khoa học,Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường - Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định: xu hướng cộng đồng quốc tế ngày càng quan tâm đến phát triển Kinh tế xanh là cơ hội cho Việt Nam hợp tác quốc tế và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế để tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu. Hơn nữa, chủ động tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác để đưa ra những định hướng, chính sách phù hợp là những việc tối cần thiết mà Việt Nam phải làm trong quá trình phát triển Kinh tế xanh, bà Thủy nhấn mạnh.
Khi Việt Nam vượt qua được thách thức của chính mình, tự tin hội nhập cùng thế giới thì khi ấy xanh hóa nền kinh tế hướng tới phát triển bền vững sẽ không còn là tham vọng.