Nuôi cấy mô tại Trung tâm công nghệ sinh học
CôngThương - Ứng dụng công nghệ sinh học vào nông nghiệp
Trong 10 năm trở lại đây, quá trình đô thị hóa của Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng diễn ra khá nhanh chóng. Trước tình hình này, TP đã đưa ra nhiều chính sách nhằm phát triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi. Đặc biệt là việc đưa công nghệ sinh học vào nghiên cứu, lai tạo ra nhiều loại cây trồng vật nuôi mới tại các trung tâm công nghệ sinh học, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp công nghệ cao. TP cũng đã đầu tư kinh phí 17 tỷ đồng cho một số đề tài nghiên cứu và dự án sản xuất thử nghiệm, bước đầu đã tạo ra một số sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao phục vụ vào các lĩnh vực nông nghiệp, y tế và bảo vệ môi trường.
Tiến sĩ Dương Hoa Xô- Giám đốc Trung tâm Trung tâm Công nghệ sinh học TP.HCM cho biết từ năm 2006 đến nay, trung tâm triển khai 40 đề tài nghiên cứu công nghệ sinh học phục vụ cây trồng, thủy sản, y dược. Trung tâm hàng năm cung ứng 150.000 - 200.000 cây con cấy mô các loại. Phòng công nghệ vi sinh đưa vào sản xuất chế phẩm sinh học cây trồng, phòng trừ dịch bệnh như chế phẩm sinh học BIMA để ủ phân chuồng, sản xuất phân bón hữu cơ sinh học, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi.
Ngoài ra, từ năm 2010 đến nay, các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghệ sinh học đã cung cấp cho thị trường 59,5 tấn hạt giống F1 chất lượng cao các loại. Xây dựng được 329 mô hình sản xuất rau an toàn theo quy trình VietGap trên tổng diện tích canh tác 145,7 ha. Hiện nông nghiệp công nghệ cao ở TP.HCM đã kêu gọi được 14 nhà đầu tư đủ điều kiện tham gia đầu tư và triển khai hoạt động trong khu trên diện tích 56,17 ha.
Công nghệ sinh học hướng phát triển cho tương lai
Theo các nhà khoa học việc ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp, sử dụng cây trồng biến đổi gen có tính kháng sâu, kháng thuốc trừ cỏ đã giúp giảm thiệt hại năng suất, công lao động, thuốc trừ sâu, qua đó, giảm giá thành sản xuất, nâng cao thu nhập cho nông dân.
Tuy nhiên, tại Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng mặc dù được ưu tiên đầu tư về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, kinh phí nhưng đến nay, sự phát triển của công nghệ sinh học vẫn còn nhiều khó khăn, cần có những chính sách quan trọng nhằm thương mại hóa công nghệ sinh học. Bên cạnh đó, nhu cầu tiêu thụ lương thực thực phẩm ngày càng tăng, trong khi diện tích đất cũng như nguồn nhân lực dành cho nông nghiệp lại đang giảm mạnh cũng tạo ra áp lực trong việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao dựa trên nền tảng công nghệ sinh học.
Tiến sĩ Dương Hoa Xô- Giám đốc Trung tâm Trung tâm Công nghệ sinh học TP.HCM cho biết thêm mới đây, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã quyết định cho phép 4 giống ngô chuyển gen được sử dụng làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi, nhiều khả năng sẽ sớm được đưa vào sản xuất, thương mại hóa. Đây được xem là một bước tiến để tiếp cận với các giống cây trồng chuyển gen của thế giới.
Bà Rena Bitter, Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại TP HCM cho biết Chính phủ Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam phát triển nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học. Đã đến lúc Việt Nam thực hiện việc thương mại hóa công nghệ sinh học nhằm giúp giảm khí carbon, chuẩn bị đối phó với các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu, tăng thu nhập cho những người nông dân trên diện tích đất canh tác.
Ngoài ra, việc giải quyết các vấn đề về cơ sở hạ tầng cho nghiên cứu khoa học và tăng cường các hoạt động tuyên truyền giúp người dân nhận biết, hiểu rõ ràng hơn về sự an toàn của công nghệ sinh học đối với sức khỏe con người và môi trường, giúp tăng sản lượng lương thực, an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng… là những điều hết sức cần thiết để đưa nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ sinh học phát triển trong tương lai.