Theo ông Nguyễn Tôn Quyền, xuất khẩu gỗ của Việt Nam từ năm 2000 đến nay tăng rất mạnh, năm 2014 đạt 6,3 tỷ USD. Mặc dù xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ quý I/2015 giảm 1,1% nhưng sang tháng 4 năm 2015 xuất khẩu gỗ đã tăng trở lại. Ước giá trị xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ tháng 4 năm 2015 đạt 555 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2015 đạt gần 2,07 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm ngoái. “Tôi vừa nhận được thông tin từ nhiều doanh nghiệp cho biết, đơn hàng năm 2015 đã lấp gần kín, sự tăng đơn hàng là do sự năng động của doanh nghiệp, thị trường rộng mở và quan trọng là vấn đề nguyên liệu. Trước đây, nguyên liệu Việt Nam nhập rất nhiều nhưng hiện nay nguồn nguyên liệu trong nước cũng tăng lên khá mạnh, vì vậy, năm 2015 xuất khẩu gỗ sẽ đạt con số 7 tỷ USD.”, ông Quyền nói.
Cũng theo ông Quyền, hiện nay, dăm gỗ xuất khẩu đang rất nóng, có nhiều luồng ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng phải hạn chế và tiến tới dừng xuất khẩu dăm gỗ, vì cho rằng đây là xuất khẩu thô, giá trị xuất khẩu không cao. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng xuất khẩu dăm gỗ tốt cho dân, người trồng rừng, hiệu quả xã hội, môi trường, kinh tế.
Về vấn đề này, ông Tô Xuân Phúc - đại diện Tổ chức Forest Trends chia sẻ, theo báo cáo xuất khẩu dăm gỗ Việt Nam giai đoạn 2012- 2014 do Tổ chức Forest Trends phối hợp với Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định và Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh vừa thực hiện cho thấy, năm 2014 Việt Nam xuất khẩu khoảng 6,97 triệu tấn dăm gỗ, đạt 958 triệu USD về kim ngạch, chiếm 15,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của quốc gia trong cùng năm. Sự phát triển của ngành dăm đã và đang tạo ra những thông tin trái chiều giữa các ngành, và điều này đặt các nhà quản lý trước những khó khăn nhất định trong việc xác định ưu tiên phát triển cho các ngành có sử dụng nguồn gỗ rừng trồng làm nguồn nguyên liệu đầu vào. Gần đây nhất, vào tháng 2/2015, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ra Quyết định phê duyệt kế hoạch triển khai phương án quản lý sản xuất dăm gỗ giai đoạn 2014-2020 trong đó nhấn mạnh: rà soát, sắp xếp các cơ sở sản xuất dăm gỗ gắn với vùng nguyên liệu nhằm đổi mới nâng cao hiệu quả trong sản xuất dăm. Nhằm giảm lượng dăm gỗ sản xuất theo lộ trình đã đề ra, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiến nghị áp dụng chính sách thuế theo hướng “tăng thuế xuất khẩu dăm gỗ và giảm thuế xuất khẩu đối với sản phẩm gỗ tinh chế xuất khẩu”.
Việc hạn chế sự phát triển của ngành dăm với mục đích tạo giá trị gia tăng cho các sản phẩm gỗ rừng trồng là định hướng hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, các câu hỏi quan trọng được đặt ra ở đây là thời điểm nào áp thuế xuất khẩu dăm và mức thuế là bao nhiêu thì phù hợp? Yếu tố gì là cần thiết đối với hộ gia đình để có thể đảm bảo khi thuế xuất khẩu dăm gỗ được áp dụng hộ sẽ chuyển sang thực hiện đầu tư trồng rừng gỗ lớn, tạo nguyên liệu cho ngành chế biến gỗ? Vì vậy, trước khi áp dụng thuế xuất khẩu dăm cần phải có những đánh giá chi tiết và khách quan về thực trạng của ngành dăm, đặc biệt về nguồn cung nguyên liệu và động lực đầu tư sản xuất gỗ rừng trồng của hộ gia đình. Bên cạnh đó, cần có những nghiên cứu sát thực về mối quan hệ tương tác giữa ngành dăm và các ngành khác có sử dụng nguồn gỗ nguyên liệu từ rừng trồng. Kết quả của các nghiên cứu này sẽ giúp việc xây dựng các chính sách, bao gồm cả chính sách thuế xuất khẩu dăm gỗ, được hiệu quả hơn. Điều này giúp giảm thiểu được những rủi ro mà chính sách có thể mang lại, đặc biệt là các tác động tiềm tàng đối với hàng triệu hộ gia đình hiện là động lực chính trong việc mở rộng diện tích rừng trồng của Việt Nam.
Hiện 130 cơ sở chế biến xuất khẩu dăm có liên quan trực tiếp đến ít nhất 50% trong tổng số 1,4 triệu hộ gia đình miền núi hiện đang cung cấp nguyên liệu cho ngành dăm. Nếu Chính phủ áp dụng thuế xuất khẩu dăm gỗ, 130 doanh nghiệp chế biến dăm này sẽ là nhóm đối tượng phải chịu thuế.Tuy nhiên, thay vì tự mình chịu mức thuế này, các doanh nghiệp xuất khẩu dăm chuyển toàn bộ chi phí có liên quan đến thuế vào giá mua nguyên liệu đầu vào. Kết quả là các hộ gia đình cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy dăm là nhóm đối tượng phải chịu thuế.
Ông Lê Công Cẩn- Giám đốc Công ty TNHH Cát Phú (Vũng Tàu) băn khoăn, hiện, sự phát triển của ngành dăm gỗ đã mang về nguồn ngoại tệ cho đất nước, góp phần đẩy mạnh phát triển các ngành khác như cây trồng, vận tải, cảng biển, người nông dân trồng rừng không phải chịu cảnh chặt bỏ chuyển đổi cây trồng vật nuôi do không có hiệu quả như những cây trồng vật nuôi khác. Với những vấn đề nêu trên thì vì sao phải đặt ra phương án quản lý chặt chẽ, phải hạn chế, phải đánh thế xuất nhập khẩu, phải áp thuế gia tăng và tăng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với ngành dăm gỗ mà thực chất là những người trồng rừng sản xuất phải gánh chịu. Ông Cẩn kiến nghị Nhà nước cần tiếp tục duy trì sự phát triển ổn định của ngành dăm gỗ trong đó có sự phát triển của ngành trồng rừng. Dùng nhân tố ổn định này để có chính sách khuyến khích đầu tư chế biến sâu mang lại hàm lượng giá trị gia tăng cao hơn.
Năm 2014, Việt Nam xuất khẩu khoảng 6,97 triệu tấn dăm gỗ, đạt 958 triệu USD về kim ngạch, chiếm 15,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của quốc gia. Theo quan điểm của ngành dăm, kim ngạch xuất khẩu với con số gần 1 tỉ USD/năm hoàn toàn không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ. Bên cạnh đó, lượng lao động tham gia vào ngành trong vai trò cung cấp nguyên liệu là không nhỏ. Vì vậy, ngành dăm cũng tạo được ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội. |