Bà Châu Thị Thu Nga
CôngThương - Chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn với ĐBQH Hà Nội, bà Châu Thị Thu Nga về vấn đề này…
Thưa bà, sau khi bản dự thảo Luật giá lần thứ 4 được trình lên Quốc hội, không ít đại biểu vẫn còn “băn khoăn” về những nội dung đã chỉnh sửa. Ý kiến của bà như thế nào?
Sự cần thiết phải ban hành Luật giá xuất phát từ yêu cầu phải tiếp tục đổi mới phương thức quản lý giá, khắc phục những bất cập hiện tại để quản lý giá phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường, bảo đảm khuyến khích cạnh tranh về giá.
Theo tôi, bản dự thảo lần thư 4 về bố cục đã thể hiện hợp lý, chặt chẽ và khoa học . Nội dung đã được chỉnh sửa nhiều, thể hiện được nhiều ý kiến đóng góp xác đáng và thể hiện được quan điểm mục tiêu và nguyên tắc xây dựng luật giá đã đề ra.
Tuy nhiên, bản thân tôi cũng như nhiều Đại biểu khác cũng thấy rằng Dự luật cũng cần được bổ sung ở một số điểm để chặt chẽ hơn, tránh gây hiểu lầm cũng như “lách” luật. Nhìn chung, “bàn tay” Nhà nước thể hiện trong Luật giá phải bao gồm cả bàn tay vô hình và hữu hình, nghĩa là với những sản phẩm mà Nhà nước định giá thì phải rõ vai trò, còn lại Nhà nước chỉ nắm quyền quản lý tổng thể, và thị trường sẽ là người quyết định.
“Niêm yết công khai về giá” có thể coi là một trong những nội dung lớn của Luật giá. Là một ĐBQH nhưng đồng thời cũng là một doanh nhân, bà thấy những điều luật cụ thể nhằm hiện thực hóa nội dung trên như thế nào?
Tôi thấy tại một số điều quy định còn chưa rõ ràng và đôi khi còn có mâu thuẫn với những nội dung khác. Ví dụ như tại điều 12, khoản 5 quy định: “Hạ giá bán hàng hóa, dịch vụ và thực hiện niêm yết công khai tại nơi giao dịch về mức giá cũ , mức giá mới , thời gian hạ giá phù hợp với quy định của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu.” Như vậy có nghĩa là DN chỉ có quyền hạ giá và lên giá đều phải xin phép theo luật. Hơn nữa, quyền của họ lại chỉ được niêm yết công khai tại nơi giao dịch, trong khi thông tin đến người tiêu dùng lại chủ yếu ở nơi bán hàng. Ngoài ra, nó còn mâu thuẫn với nội dung ở điều 13 : “Nghĩa vụ của tổ chức , cá nhân sản xuất kinh doanh tiết a, khoản 5) là tại nơi giao dịch hoặc nơi mua, bán hàng hóa, dịch vụ.” Vì vậy, tôi nghĩ cần bổ sung cụm từ “lên giá hoặc xuống giá” để chỉ hành vi của tổ chức và cụm từ “nơi mua bán hàng hóa dịch vụ” để chỉ vị trí cần được công khai niêm yết giá.
Hay tại điều 13, khoản 5, tiết b thì lại quy định về niêm yết và mua bán đúng giá niêm yết chỉ “đối với hàng hóa , dịch vụ do Nhà nước định giá”. Còn ngược lại thì họ chỉ có nghĩa vụ “niêm yết giá phải rõ rang , không gây nhầm lẫn cho khách hàng”, nghĩa là chỉ cần niêm yết còn bán giá nào thì… tùy. Theo tôi, chỉ cần bỏ từ “hoặc” trong điều này thì ý nghĩa sẽ đúng và đầy đủ hơn. Ngoài ra, trong tiết a của cùng điều khoản này, có thể thay cụm từ “mua bán đúng giá niêm yết” bằng “không được cao hơn giá niêm yết” vì người bán có thể bán thấp hơn giá niêm yết.
Theo Chính phủ, Dự thảo luật này đảm bảo nguyên tắc Nhà nước thực hiện quản lý giá theo cơ chế thị trường. Như vậy nghĩa là Nhà nước sẽ hạn chế việc trực tiếp xuất hiện điều phối giá với các hàng hóa dịch vụ không do Nhà nước định giá?
Đúng vậy, nhưng khi có đề nghị của bên mua hoặc bên bán hoặc cả hai bên thì Nhà nước sẽ tổ chức hiệp thương giá. Tuy nhiên, ở nội dung này, tôi cũng đưa ra một số góp ý để nguyên tắc “thị trường” được thể hiện rõ hơn.
Tại khoản 2 điều 28 (kết quả hiệp thương giá) thì nội dung nêu rõ “Cơ quan có thẩm quyền hiệp thương giá quyết định tạm thời để các bên thi hành cho đến khi các bên thỏa thuận được mức giá.” Như vậy có thể hiểu quyết định tạm thời đó có tính chất bắt buộc cho cả hai bên mua và bán đối với [1] hàng hóa dịch , dịch vụ không thuộc nhà nước định giá và [2] hàng hóa, dịch vụ quan trọng.
Với nội dung như vậy dễ tạo gia sự hiểu méo mó và cho là Nhà nước vẫn can thiệp bằng biện pháp hành chính quá sâu vào lĩnh vực Giá bởi vì căn cứ vào đề nghị bên mua, bên bán thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mới tổ chức hiệp thương giá, nếu họ tự thỏa thuận được thì không cần hiệp thương.
Một nội dung được dư luận quan tâm trong Dự luật giá là việc “Chống hành vi chuyển giá”. Ý kiến của bà về vấn đề này như thế nào?
Bộ Tài Chính đánh giá “Chống chuyển giá giúp ngăn ngừa tình trạng trốn tránh nghĩa vụ thuế đối với nhà nước của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh”. Nhưng theo tôi, hậu quả của chuyển giá còn nặng nề nhiều. Đấy không chỉ là chuyện thất thu thuế mà còn phá hoại mục tiêu thu thút đầu tư nước ngoài của chúng ta: tranh thủ nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài, biến Việt Nam thành một một địa chỉ để làm ăn gian lận.
Chuyển giá làm yếu đi hiệu lực quản lý Nhà nước trong chủ trương kêu goi đầu tư và là một trong những nguyên dẫn đế tình trạng nhập siêu của quốc gia. Các công ty có hành vi chuyển giá (đặc biệt là các công ty FDI) thường tối thiểu hóa doanh thu và tối thiểu hóa thu nhập phát sinh tại Việt Nam dẫn đến tỷ lệ tổng tiền lương, tiền công trả cho lao động việt nam trên doanh thu khai thuế đạt khá cao so với DN sản xuất trong nước nhưng thực tế số lượng tuyệt đối lại thấp hơn nhiều so với DN trong nước .
Gần đây Bộ Tài Chính có thông tư 66/2010/TT-BTC hướng dẫn xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết nhưng để có kết quả là còn nhiều khó khăn. Vì vậy, theo tôi nên bổ sung vào Luật Giá các khái niệm cơ bản, các cơ chế, chế tàiliên quan đến hành vi chuyển giá để làm cơ sở Chính phủ có hướng dẫn chi tiết nhằm chống hành vi chuyển giá một cách hiệu quả .
Xin cảm ơn bà!