Các nhà báo tác nghiệp “chay” tại Jakarta (Indonesia)
CôngThương - Không internet để tác nghiệp tại hội nghị quốc tế
Tháng 5/2011, tôi theo đoàn công tác của Bộ Công Thương do Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng làm trưởng đoàn sang Indonesia dự Hội nghị Thượng đỉnh kinh doanh cấp cao ASEAN – EU (AEBS) lần thứ nhất.
Sự kiện diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Jakarta. Không giống như những gì trong tưởng tượng của giới truyền thông về một nơi đã từng tổ chức nhiều sự kiện cấp cao, trung tâm hội nghị hoành tráng này hoàn toàn không có khu dành riêng cho báo giới, phóng viên được tác nghiệp trực tiếp trong hội trường nhưng xung quanh chỉ có 2 ổ cắm điện, lại là loại ổ cắm âm chìm trong tường. Nhà báo các nước ngơ ngác và cười buồn nhìn nhau bởi chưa biết ai sẽ nhường ai 2 cái ổ cắm kia. Thông tin nhanh cũng không thể truyền tải ngay bởi không có đường truyền internet. Coi như làm việc “chay”.
Không ai bảo ai, các nhà báo túa đi hỏi nhân viên trong trung tâm hội nghị về những phương tiện tác nghiệp tối thiểu này, nhưng hoặc người nọ chỉ sang người kia, hoặc đều nhận được cái lắc đầu lãnh đạm.
Thế nhưng, tin/bài của tôi vẫn gửi về rất cập nhật sau mỗi sự kiện lớn, nhỏ trong khuôn khổ Hội nghị và báo cáo Bộ trưởng xem ngay trong ngày; bởi ngay sau đó tôi đã tìm được một nơi có thể “nhờ vả”- đó là “ngoại giao” mượn được thiết bị internet vệ tinh của một đồng nghiệp đến từ Vương quốc Bỉ. Hiện tại, quan hệ giữa tôi và đồng nghiệp này vẫn duy trì đều đặn qua email, facebook và skype.
Đem câu chuyện trên “phàn nàn” với Bộ trưởng, ông nói như một lời động viên: “Quả thực không đâu chuẩn bị chu đáo như các hội nghị quốc tế diễn ra ở nước mình. Nhưng có như vậy mới biết, nhà báo Việt Nam luôn “trong cái bó là ló cái khôn”.
Suýt gãy cổ vì bài phỏng vấn
Có dịp công tác tới Xứ sở Kim chi nhiều lần, nhưng ấn tượng nhất với tôi là chuyến đi làm việc với Tập đoàn Công nghiệp nặng Doosan năm 2012. Tôi- với tư cách trưởng đoàn nhà báo của Việt Nam và là nhà báo nữ duy nhất - được đích thân tập đoàn chọn là người “tháp tùng” ông Chủ tịch tới khu trượt tuyết Yongpyong nằm ở trung tâm núi Baekdudaegan. Mục đích không phải là đi chơi thể thao đơn thuần mà trọng trách là tranh thủ trong 2 giờ trượt tuyết phải làm được bài phỏng vấn về chiến lược đầu tư sắp tới của tập đoàn mẹ vào Công ty Công nghiệp nặng Doosan tại Việt Nam (Doosan Vina).
Lần đầu tiên trượt tuyết, mặc dù đã được hướng dẫn kỹ càng, nhưng tôi vô cùng lúng túng trong bộ quần áo dày cộp cùng lỉnh kỉnh các thiết bị nặng hàng chục kg. Nhớ được động tác này thì quên động tác kia, cứ thế trong nửa giờ đồng hồ loay hoay với mớ trang phục và ngã dúi ngã dụi liên tục, tôi chưa thể tiếp cận được với ông Chủ tịch Park Yong Maan- vốn là vận động viên nghiệp dư của môn trượt tuyết. Với linh cảm bản thân, tôi nhận thấy, hình như lãnh đạo tập đoàn muốn thử thách lòng kiên trì của nhà báo Việt Nam trước khi tiếp xúc làm việc. Phận “nữ nhi” thật, nhưng không thể thua! Và tôi tự đứng dậy, tự hình dung lại các động tác thầy giáo đã hướng dẫn trước khi quyết định trượt từ trên đỉnh núi xuống khu lòng chảo.
Chuẩn bị trượt tuyết ở Hàn Quốc
Thấy tôi giơ ngón tay cái “thách đấu”, ông Chủ tịch làm động tác tương tự và chúng tôi cùng vào cáp treo lên đỉnh núi. Tôi chóng mặt quay cuồng khi nhìn thấy ngút ngàn tuyết trắng xóa. Thở sâu, tôi quyết định chỉnh trang lại tư thế, đặt chân lên ván trượt và nhắm mắt lấy đà. Chỉ cảm nhận được tiếng gió vun vút, nước băng bắn lên lạnh buốt táp vào mặt và khi… mở mắt, thấy xôn xao tiếng nói, miệng xôm xốp những tuyết là tuyết. Thì ra gần xuống núi, tôi bị trật đường băng, lao thẳng vào tấm lưới bảo vệ. Bác sĩ nói, nếu như không có tấm lưới này, tôi đã bị gãy cổ.
Cầm ly trà nóng ông Park Yong Maan mời sau đó tại quán cà phê dưới chân núi, tay tôi vẫn run bần bật. Phần vì cái lạnh tê tái âm độ, phần vì chưa thể trấn tĩnh sau cú ngã; nhưng Chủ tịch Tập đoàn Doosan dường như không để ý tới tôi và bắt đầu câu chuyện đầu tư vào Việt Nam…
Câu chuyện trong nhà hàng tại Mỹ
Tôi sang Mỹ nhận bằng tốt nghiệp MBA vào mùa Noel năm 2012. Mục đích của chuyến đi là đón nhận thành quả sau 2 năm học vất vả, nhưng sự “máu nghề” dường như thấm đẫm, nhìn đâu cũng thấy đề tài để khai thác, học hỏi và viết.
Bữa cơm tối trong nhà hàng Việt Nam tại NewYork; khi chuẩn bị kết thúc bữa ăn, bất giác tôi nhìn sang bàn bên cạnh và thấy một người trẻ tuổi, dường như là một nhà báo nước ngoài đang ngồi ghi chép rất tỉ mỉ. Trước mặt anh này là hai vợ chồng chủ nhà hàng. Chị vợ thấy tôi đang chăm chú nhìn bèn vẫy sang ngồi cùng bởi trước đó cô giáo tôi đã giới thiệu nghề nghiệp của tôi với chị. Vẻ ngại ngùng của tôi qua nhanh khi biết người trẻ tuổi đó là nhà báo của trang mạng news.com.au nổi tiếng nước Úc. Anh đang thực hiện loạt bài về người Việt mở nhà hàng trên đất Mỹ. Câu chuyện qua lại khiến tôi cảm động rơi nước mắt. Anh nói, người mẹ Việt của anh cũng có một nhà hàng tại Washington, nhưng trong một lần nhà hàng bị rò rỉ khí gas, vì cứu một khách hàng, mẹ anh đã mất.
Câu chuyện dài của anh về người mẹ gắn bó với những món ăn Việt Nam lâu năm, dũng cảm cứu khách hàng, đã trở thành đề tài nóng trên các trang mạng khắp nước Mỹ thời điểm đó. Và với mong muốn được đưa những thông tin về ẩm thực Việt giới thiệu trên khắp thế giới, anh đã quyết tâm theo nghề báo.
Trong nhà hàng Việt Nam tại Mỹ
Câu chuyện trao đổi giữa tôi với anh - một nhà báo Việt và một nhà báo Úc - tới hồi kết thì Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú, Phó cục trưởng Cục Quản lý thị trường Hoàng Minh Tuấn (nay là Vụ trưởng Vụ Thương mại biên giới và miền núi) và Tham tán Công sứ Việt Nam tại Mỹ Đào Trần Nhân bước vào nhà hàng. Một cuộc gặp gỡ tình cờ nhưng xiết bao mừng vui! Anh Nhân bảo, nhà hàng Việt Nam là địa chỉ ẩm thực không thể thiếu của mỗi người con đất Việt trên khắp thế giới. Câu nói của anh đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt thành của anh nhà báo người Úc!