Việt Nam xuất khẩu cao su đứng thứ 4 thế giới, nhưng các DN chế biến trong nước vẫn thiếu nguyên liệu.
CôngThương - Xuất cứ xuất, thiếu mặc thiếu
6 tháng đầu năm, mặc dù giá mủ cao su thiên nhiên xuất khẩu lên xuống thất thường, ngành sản xuất ôtô Nhật Bản ngưng trệ khiến nhu cầu nhập khẩu cao su sản xuất lốp ôtô giảm, nhưng Việt Nam vẫn xuất khẩu cao su thiên nhiên đạt 284.000 tấn, trị giá 1,253 tỷ USD, tăng 17,7% về lượng và tăng 90,4% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Giá cao su xuất khẩu bình quân trong 6 tháng đầu năm đạt khoảng 4.410 USD/tấn, cao hơn so với năm trước khoảng 60%.
Ông Lê Quang Thung, Chủ tịch Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), kiêm quyền Chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam -cho biết: Năm 2011, sản lượng cao su có khả năng tăng khoảng 4% và nhờ bổ sung nguồn cao su tạm nhập tái xuất, Việt Nam có thể xuất khẩu khoảng 800.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 3 tỷ USD.
Song, trái nghịch với vị thế đứng thứ 4 thế giới về xuất khẩu mủ cao su, các DN xuất khẩu “mủ trắng” đang lãi lớn, thì các DN chế biến cao su trong nước lại đang khốn đốn vì thiếu nguyên liệu trầm trọng. Công ty Cổ phần Cao su Đà Nẵng vừa khởi công xây dựng nhà máy sản xuất vỏ xe radiant với công suất 600.000 chiếc. Dự kiến, khi nhà máy đi vào hoạt động, cần khoảng 20.000 tấn mủ cao su nguyên liệu/ năm. Tuy nhiên, công ty không tìm được nguồn mua nguyên liệu ổn định trong nước do giá mủ cao su tăng liên tục từ cuối năm 2010 đến nay, ngành cao su chỉ tập trung cho xuất khẩu chứ không bán cho DN trong nước. Không chỉ DN “nội”, kể cả nhiều DN sản xuất săm lốp ô tô nước ngoài như Kumho cũng đang phải nhập khẩu nguyên liệu.
Tuy nhiên, ông Thung khẳng định: Năm 2010, Việt Nam xuất khẩu trên 780.000 tấn cao su nguyên liệu, thu khoảng 2,4 tỷ USD. Trong khi đó, VRA ước tính DN sản xuất trong nước chỉ sử dụng khoảng 140.000 tấn mủ cao su. Vậy không thể nói là thiếu nguyên liệu. Vấn đề chỉ ở chỗ, tại sao DN nước ngoài lại mua được mà DN Việt Nam không mua được (?).
Tại doanh nghiệp?
Để lý giải nghịch lý này, ông Thung cho rằng: Thứ nhất, DN trong nước chưa chịu vận hành theo cơ chế thị trường, luôn có tâm lý muốn mua rẻ. Đơn cử như những năm 1999 - 2000, thị trường cao su không ổn định, sản lượng nhiều, DN thu mua nguyên liệu ép giá, bội tín với người sản xuất, nhiều đơn hàng đã ký bị hủy bỏ… khiến DN sản xuất điêu đứng bởi lượng tồn kho lớn.
Sau khi ngành sản xuất nguyên liệu cao su “xốc” lại thị trường, tổ chức được lượng khách hàng dồi dào với những đơn đặt hàng ký dài hạn, giá cả lên, xuống phụ thuộc vào thị trường… thì các DN trong nước vẫn vận động “chộp giật” theo cơ chế cũ. Thứ hai, trước đây, Tổng công ty Cao su muốn được làm cổ đông chiến lược của Tổng công ty Hóa chất (nay là Tập đoàn Hóa chất) để cung ứng nguyên liệu cho sản xuất nhưng Tổng công ty Hóa chất không đồng ý. Như vậy, rõ ràng các ngành này vẫn chưa thực sự muốn gắn với người sản xuất.
Tình trạng yếu thế ngay trên sân nhà, chủ yếu do sự chủ quan của DN Việt Nam. Chính vì vậy, các DN “nội” nên chủ động trong việc thu mua nguyên liệu theo cơ chế thị trường, giá cả bình đẳng như DN “ngoại”, để không chỉ DN được có lợi, mà người nông dân cũng phải được hưởng lợi từ cơ chế cạnh tranh này. Bên cạnh đó, các nhà máy sản xuất chế biến săm lốp trong nước nên để các DN sản xuất nguyên liệu làm cổ đông chiến lược, từ đó chủ động trong việc cung cấp nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước.
Câu chuyện việc xuất cứ xuất, nguyên liệu cho sản xuất trong nước thiếu cứ thiếu, là nghịch cảnh không phải chỉ xảy ra riêng với ngành cao su, mà đang diễn ra ở nhiều ngành trọng yếu. Theo các chuyên gia, cả cơ quan quản lý điều hành của nhà nước cũng phải chịu trách nhiệm, không nên đổ tất cả lỗi lên đầu DN.