CôngThương - Trong nước giá bất ngờ giảm
Càng ngạc nhiên hơn là qua đầu tuần này giá chào bán xuất khẩu của loại 500 gr/l FAQ là 5.450 đô la/tấn và loại 550 gr/l là 5.770 đô la/tấn. Tính ra chỉ trong vòng 1 tuần giá tiêu xuất khẩu của Việt Nam bình quân giảm 500 đô la/tấn cho tất cả các loại, mức tụt giảm quả là bất ngờ.
Giá hạt tiêu xô trong nước chỉ trong 1 tuần cũng từ 114.000 đồng/kg giảm xuống còn 107.000 đồng/kg.
Đến hôm nay có thể khẳng định vụ tiêu năm 2011 của nước ta đã hoàn tất. Một số vùng trọng điểm như Chư Sê - Gia Lai, Cư Kuin - Đak Lak hay Gia Kiệm - Đồng Nai… bị mất mùa cục bộ do sâu bệnh phá hoại nhưng nhìn chung sản lượng của cả nước ước đạt 110.000 tấn như đã dự kiến, bình quân 22,6 tạ/héc ta.
Kết thúc vụ mùa đã góp phần khẳng định Việt Nam đang chiếm 30% sản lượng hạt tiêu của thế giới và tiếp tục chiếm vị trí số 1 trong xuất khẩu hạt tiêu của thế giới trong nhiều năm nữa. Với vị thế đó thì rất khó lý giải tại sao nhu cầu hạt tiêu thế giới ngày càng cao, cung không đủ cầu mà giá hạt tiêu Việt Nam thì ngày càng tụt lùi xuống dốc.
Thế giới: Nhà đầu cơ ép giá
Thị trường tiêu kỳ hạn vài phiên gần đây dao động lớn và giảm mạnh do các nhà đầu cơ giá xuống nắm vị thế. Tại thị trường chính như Việt Nam và Indonesia giá cũng dịu lại do các nhà đầu cơ giá lên đã không tham gia nhiều vào thị trường.
Trong khi đó, lượng tiêu tung ra thị trường của Việt Nam, Indonesia và Brazil cũng hạn chế. Dường như không ai quan tâm nhiều đến lượng tồn kho thật sự tại các nước sản xuất.
Báo cáo gần đây về Việt Nam mới xuất khẩu 35% sản lượng vụ mùa, và Ấn Độ chỉ mới bán ra 20% vụ mùa của họ.
Theo Hiệp hội tiêu thế giới (IPC), giá tiêu tại Ấn Độ vẫn duy trì vững và tăng 3%. Các nhà đầu cơ hiện nay vẫn tiếp tục tăng các vị thế làm cho lượng tồn kho tại nội địa vẫn duy trì thấp.
Tại Việt Nam thị trường hạt tiêu vẫn sôi động, vụ mùa thu hái đã kết thúc trong tháng này, tuy nhiên các nông dân và các nhà chế biến vẫn găm lại lượng hàng của họ với hy vọng giá tăng hơn. Trong khi Indonesia có lượng tồn kho hiện nay rất thấp.
Thị trường sẽ có hướng đi trực tiếp vào tháng 6 và tháng 7 tới chủ yếu tập trung vào lượng giao dịch chào mua. Giá tại Lampung vẫn duy trì bằng tuần trước. Theo IPC tháng 4 năm 2011, Indonesia đã xuất khẩu 4.416 tấn tiêu đen mang lại giá trị 20,6 triệu đô la, tăng so với tháng trước là 2.368 tấn. Tổng xuất khẩu từ tháng 1 đến tháng 4 của Indonesia đạt 10.821 tấn, tăng so với cùng kỳ năm trước mức 7.025 tấn.
Tại Sri Lanka, giá tăng 1% và Brazil giá tại nội địa Belem loại Asta đang được chào mua 6.300 đô la/tấn.
Giá thu mua nội địa và xuất khẩu bình quân hàng ngày tại Việt Nam
Ngày | Giá trong nước(VND/kg) | Xuất khẩu(FOB /HCM /USD/tấn ) | |||
Tháng 5/2011 | Tiêu đen(Đầu giá*) | Tiêu trắng(650gr/l) | Tiêu đen(500g/l, FAQ*) | Tiêu đen(550g/l, ASTA) | Tiêu trắng(ASTA) |
Ngày 2 | 106.000 - 108.000 | 160.000 - 170.000 | 5.000 - 5.100 | 5.500 - 5.600 | 8.000 - 8.100 |
3 | 106.000 - 108.000 | 160.000 - 170.000 | 5.000 - 5.100 | 5.500 - 5.600 | 8.000 - 8.100 |
4 | 106.000 - 108.000 | 160.000 - 170.000 | 5.000 - 5.100 | 5.500 - 5.600 | 8.000 - 8.100 |
5 | 106.000 - 108.000 | 160.000 - 170.000 | 5.000 - 5.100 | 5.500 - 5.600 | 8.000 - 8.100 |
6 | 106.000 - 108.000 | 160.000 - 170.000 | 5.000 - 5.100 | 5.500 - 5.600 | 8.000 - 8.100 |
9 | 105.000 - 107.000 | 155,000 - 160,000 | 4,700 - 4,800 | 5,200 - 5,300 | 7.900 - 8.000 |
10 | 105.000 - 107.000 | 155,000 - 160,000 | 4,700 - 4,800 | 5,200 - 5,300 | 7.900 - 8.000 |
11 | 105.000 - 107.000 | 155,000 - 160,000 | 4,700 - 4,800 | 5,200 - 5,300 | 7.900 - 8.000 |
12 | 106.000 - 108.000 | 155,000 - 160,000 | 4,700 - 4,800 | 5,200 - 5,300 | 7.900 - 8.000 |
13 | 106.000 - 108.000 | 155,000 - 160,000 | 4,700 - 4,800 | 5,200 - 5,300 | 7.900 - 8.000 |
16 | 104,000 - 106,000 | 155,000 - 160,000 | 4,700 - 4,800 | 5,200 - 5,300 | 7.900 - 8.000 |
17 | 104,000 - 106,000 | 155,000 - 160,000 | 4,700 - 4,800 | 5,200 - 5,300 | 7.900 - 8.000 |
18 | 104,000 - 106,000 | 155,000 - 160,000 | 4,700 - 4,800 | 5,200 - 5,300 | 7.900 - 8.000 |