Hoạt động biên mậu tại khu vực biên giới ngày càng phát triển |
Hoạt động thương mại biên giới ngày càng đa dạng
Theo Ban Chỉ đạo Thương mại biên giới, Việt Nam có 25 tỉnh biên giới giáp với 2 tỉnh biên giới của Trung Quốc, 10 tỉnh biên giới của Lào, 9 tỉnh biên giới của Campuchia. Những năm qua, xác định đúng tầm quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội khu vực biên giới, bằng nhiều nguồn lực, chúng ta đã đầu tư phát triển mạnh mẽ hệ thống hạ tầng tại khu vực này. Đến nay, trên toàn tuyến biên giới đã hình thành 24 cửa khẩu quốc tế, 26 cửa khẩu chính, 86 cửa khẩu phụ và nhiều đường mòn, lối mở. Ngoài ra, còn có 28 khu kinh tế cửa khẩu đã được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Hệ thống cửa khẩu và chợ biên giới đã góp phần đưa kim ngạch trao đổi hàng hóa qua cửa khẩu biên giới liên tục tăng, trong đó, tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc chiếm khoảng 85%, tuyến biên giới Việt - Lào chiếm khoảng 4% và tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia chiếm 11%.
Cùng với việc đầu tư hạ tầng, các chính sách đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới gắn với vùng dân tộc thiểu số và miền núi cũng được Nhà nước quan tâm đầu tư nên hoạt động kinh doanh thương mại biên giới ngày càng đa dạng hơn với nhiều phương thức, như: xuất nhập khẩu trực tiếp, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, kho ngoại quan, trao đổi của cư dân biên giới... Nhờ đó, đời sống dân cư khu vực cửa khẩu biên giới đã được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt.
Đặc biệt, thông qua hoạt động thương mại biên giới, các mặt hàng nông, lâm sản, thực phẩm, hàng công nghiệp và hàng tiêu dùng... của Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc, Lào, Campuchia đã góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, vận tải và các dịch vụ khác của Việt Nam.
Tạo điều kiện cho phát triển kinh tế biên mậu
Dù đã đạt được nhiều kết quả trong phát triển kinh tế biên mậu song vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể, tại tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc, hệ thống kho bãi tại cửa khẩu chưa đáp ứng nhu cầu, đặc biệt là hệ thống kho lạnh chưa được đầu tư; một số mặt hàng nông sản, trái cây tươi của Việt Nam có tính mùa vụ khi mua bán, trao đổi với Trung Quốc không có hợp đồng mua bán; thông tin về thương mại biên giới còn thiếu… Trong khi đó, tại tuyến biên giới Việt – Lào, hàng hóa Việt Nam chịu sự cạnh tranh gay gắt của hàng hóa Thái Lan, Trung Quốc; các biện pháp tạo thuận lợi cho người, hàng hóa và phương tiện qua lại biên giới còn hạn chế… Tương tự, tại tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia, hoạt động của các chợ biên giới còn hạn chế, hạ tầng xuống cấp, chủ yếu phục vụ nhu cầu hàng ngày của cư dân biên giới; việc thay đổi chính sách bán hàng miễn thuế đã gây khó khăn cho hoạt động của các khu thương mại thuộc khu kinh tế cửa khẩu.
Do đó, để thúc đẩy thương mại biên giới, bên cạnh các cơ chế điều tiết biên mậu linh hoạt, hiệu quả từ Trung ương đến địa phương, cần tập trung đồng bộ hạ tầng vùng biên giới, trong đó, ưu tiên cho vùng có điều kiện phát triển trước.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hợp tác với các nước có chung biên giới để tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển thương mại biên giới. Thúc đẩy đàm phán với các nước có chung biên giới với Việt Nam về việc ký kết các hiệp định, thỏa thuận tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại biên giới. Song song đó, cần sớm có các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về nguồn vốn đầu tư nâng cấp, hoàn thiện kết cấu hạ tầng thương mại ở khu vực biên giới, đa dạng hóa các hình thức, phương thức xúc tiến thương mại.
Đặc biệt, do khu vực biên giới thường là nơi cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số, hạ tầng yếu, sản xuất chưa phát triển... Do đó, để đồng bào không bị tụt lùi khi thương mại biên giới phát triển phải chú trọng đào tạo nghề, nâng cao kỹ năng cho đồng bào trong các khu kinh tế cửa khẩu để họ có cơ hội tìm kiếm việc làm; xây dựng quy hoạch vùng sản xuất nông sản hàng hóa chất lượng cao, đủ điều kiện xuất khẩu; hỗ trợ phát triển đội ngũ doanh nghiệp chuyên hoạt động biên mậu gắn với địa bàn biên giới, trong đó ưu tiên cho các doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động là đồng bào dân tộc thiểu số...