86% điện thoại thông minh trên toàn cầu được sản xuất từ châu Á |
Châu Á chiếm hơn 50% sản lượng ôtô, 62% màn hình tinh thể lỏng, 86% điện thoại thông minh và 100% máy ảnh kỹ thuật số của thế giới. Nhiều sản phẩm này được tạo ra trong mạng lưới sản xuất, các chuỗi giá trị trong khu vực với nhiều giai đoạn sản xuất khác nhau của mỗi hàng hóa diễn ra ở các quốc gia khác nhau, tùy thuộc vào lợi thế của mỗi nước.
Để giảm bớt những rào cản đối với các mạng lưới sản xuất trên, nhiều nước đã thiết lập các hiệp định thương mại song phương và khu vực. Ở một số nước lớn trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc thì tiến trình ký kết các hiệp định diễn ra khá chậm, còn các nước Đông Nam Á tích cực hơn trong đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại khu vực. Năm 1992, các nước Đông Nam Á đã hình thành Khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA). Đến tháng 1/2010, ASEAN đã có hiệp định thương mại với các đối tác chính là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand. Hiện nay, hơn 60% tổng thương mại của ASEAN đều nằm trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA).
Quy tắc xuất xứ - nội dung cốt lõi của FTA - quy định cụ thể những trường hợp một hàng hóa được coi là có xuất xứ từ một nước được hưởng thuế quan ưu đãi đã đàm phán trong các hiệp định thương mại. Quy tắc xuất xứ có thể tạo thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sự lưu thông hàng hóa qua biên giới. Yêu cầu về hàm lượng giá trị nội địa đặt ra cho xuất khẩu hàng hóa cuối cùng khi muốn hưởng thuế quan ưu đãi trong khối thương mại. Quy tắc xuất xứ sẽ ngăn cản các công ty ngoài hiệp định ưu đãi được xuất khẩu hàng hóa sang một nước trung gian có thuế quan ưu đãi với điểm đến cuối cùng. Quy tắc có thể thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, ví dụ, có thể là quy tắc sản phẩm cụ thể, thường kiểm tra xem hàng hóa có chuyển đổi phân loại thuế, mức độ hàm lượng giá trị khu vực hoặc yêu cầu kỹ thuật khác. Cũng có các quy tắc quy định mức độ hàng hóa có xuất xứ ở một nước khác trong khu vực thương mại ưu đãi có thể được xem là “xuất xứ” ở một nước khác vì mục tiêu thuế quan.
Các quy tắc xuất xứ của ASEAN có cấu trúc tương đối đơn giản và minh bạch: chủ yếu quy định 40% hàm lượng giá trị khu vực hoặc cách tiếp cận thay đổi thuế quan. Thông thường, các doanh nghiệp linh hoạt sử dụng cách tiếp cận nào thuận tiện để chứng minh hàng xuất khẩu của mình đủ điều kiện hưởng thuế thấp trong các FTA ASEAN.
Thuế quan ưu đãi chỉ được sử dụng nhiều khi biên độ ưu đãi thuế quan khá lớn, đó là khi thuế quan ưu đãi trong FTA thấp hơn đáng kể với thuế đối xử tối huệ quốc (MFN) áp dụng cho các nước khác. Nếu quy tắc xuất xứ hạn chế, chi phí tuân thủ các quy tắc này đôi khi vượt quá lợi ích thu được từ thuế suất thấp. Khi đó, các doanh nghiệp sẽ thực hiện giao dịch thương mại theo thuế MFN.
Các quy tắc xuất xứ của ASEAN đặt ra một số chi phí, tương đương thuế của khoảng 3,4% tất cả các hàng hóa, tương đương thuế suất bình quân 2,09%. Nhưng những hiệu ứng của điểm hạn chế này thể hiện khác nhau giữa các ngành. Có thể hạn chế nhỏ trong các ngành như điện tử hoặc thiết bị xây dựng, nhưng rất cao ở các ngành sản xuất sản phẩm da, dệt may, thực phẩm và ô tô. Mặc dù tỷ lệ khiêm tốn nhưng các quy tắc xuất xứ hạn chế có thể góp phần làm cho thuế suất tăng từ thấp lên cao.
Chính vì điểm phức tạp này, các quy tắc xuất xứ tương đối hạn chế của ASEAN không thể có tác động lớn đối với dòng thương mại, vì tỷ lệ lớn thương mại quốc tế ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương thuộc về ngành điện tử và thiết bị xây dựng có thuế suất MFN thấp, mức độ hấp dẫn ưu đãi (dù có hay không có các quy tắc xuất xứ hạn chế) luôn không đáng kể.
Tuy vậy, việc đơn giản hóa các quy tắc xuất xứ mang lại những lợi ích nhất định cho nhiều nền kinh tế ASEAN, có thể giúp các lĩnh vực như: máy móc, ôtô, các ngành công nghiệp nhẹ như may mặc, thực phẩm và thực phẩm chế biến, vì những ngành này chiếm vai trò lớn trong hoạt động xuất khẩu cũng như chiếm số lượng việc làm lớn.