Phó Chủ tịch UBN UBN UBN D tỉnh Quảng Ninh Vũ Thị Thu Thủy thăm mô hình trồng cây dược liệu của đồng bào dân tộc huyện Ba Chẽ |
Đặt mục tiêu rõ ràng và lộ trình cụ thể
Theo đó, Đề án đặt ra mục tiêu chung, đến hết năm 2020, đưa tất cả các xã và thôn ĐBKK thuộc xã khu vực I, II trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ra khỏi diện ĐBKK, hoàn thành mục tiêu Chương trình 135.
Đối với mục tiêu cụ thể, Đề án nêu rõ sẽ cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo, đến hết năm 2020 thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo ở các xã và thôn ĐBKK tăng gấp 2 lần so với cuối năm 2015.
Đến năm 2010, tất cả các xã, bản ra khỏi diện ĐBKK có cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư theo tiêu chí nông thôn mới. Cụ thể, 100% xã duy trì đạt tiêu chí quốc gia về y tế; 100% xã có trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung tâm học tập cộng đồng, đáp ứng đủ nhu cầu học tập và phổ biến kiến thức cho người dân; 80% số xã có cơ sở vật chất trường học đạt chuẩn.
Các công trình thủy lợi nhỏ được đầu tư đáp ứng 75 - 80% nhu cầu tưới tiêu cho diện tích cây trồng hàng năm. Có 90% thôn có đường trục giao thông được cứng hóa, đảm bảo tiêu chuẩn và cấp kỹ thuật theo quy định của Bộ Giao thông vận tải; 90% hộ gia đình trở lên được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Ít nhất 90% hộ dân trở lên được tiếp cận, cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; kinh nghiệm sản xuất.
Về lộ trình, Đề án 196 nêu cụ thể, đến hết năm 2018: có 3 xã và 11 thôn ĐBKK thuộc xã khu vực I, II ra khỏi diện ĐBKK, hoàn thành mục tiêu Chương trình 135.
Đến hết năm 2019: có thêm 13 xã khu vực III ra khỏi diện ĐBKK, hoàn thành mục tiêu Chương trình 135.
Đến hết năm 2020: Có thêm 6 xã khu vực III ra khỏi diện ĐBKK, hoàn thành mục tiêu Chương trình 135.
Người dân là chủ thể trực tiếp thực hiện đề án
Theo ông Lý Văn Thành – Phó Ban Dân tộc Quảng Ninh, nội dung của Đề án tập trung vào 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp cơ bản.
Thứ nhất, nhóm nhiệm vụ giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
Thứ hai, nhóm giải pháp thông tin, tuyên truyền. Đây được xác định là giải pháp rất quan trọng tạo chuyển biến trong cộng đồng người dân khu vực đặc biệt khó khăn.
Thứ ba, nhóm giải pháp về công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực cộng đồng cán bộ xã, thôn đặc biệt khó khăn. Đây cũng là giải pháp căn cơ.
Thứ tư, nhóm giải pháp thực hiện tiêu chí và các điều kiện để hoàn thành chương trình135 gắn với đưa thôn, bản ra khỏi diện đặc biệt khó khăn.
Thứ năm, nhóm giải pháp cơ chế và nguồn lực thực hiện. Đối với nguồn lực, đề án được bố trí với tổng kinh phí trên 1.345 tỷ đồng. Quảng Ninh là 1 trong 4 tỉnh Trung ương không cấp kinh phí để thực hiện đưa thôn, bản ra khỏi diện ĐBKK, nguồn lực thực hiện chương trình địa phương tự cân đối và nguồn xã hội hóa.
Ông Thành nhấn mạnh, Đề án 196 của Quảng Ninh nhất quán quan điểm, đưa các xã, thôn ra khỏi diện ĐBKK, hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Trong đó, người đứng đầu phải chịu trách nhiệm trước cấp trên và thực hiện phân công cụ thể trong tổ chức triển khai thực hiện Đề án.
Đề án đặc biệt nhất quán quan điểm, cấp huyện trực tiếp chỉ đạo, cấp xã trực tiếp thực hiện, thôn, bản đoàn kết, đồng lòng, người dân tích cực sản xuất và chủ động thoát nghèo. Lấy phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân là trung tâm; hỗ trợ đầu tư hạ tầng thiết yếu là cần thiết. Các nội dung đầu tư, hỗ trợ phải lấy ý kiến và được sự thống nhất của người dân theo đúng quy định.
“Tuyên truyền, vận động tạo sự chuyển biến về tư tưởng, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức từ xã, thôn đến người dân không bằng lòng với thực tại hiện có. Trước hết là sự chuyển dịch nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức xã, cán bộ thôn đến người dân, để có sự đồng thuận, quyết tâm đưa xã, thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn theo lộ trình đề ra. Chống tư tưởng cục bộ, trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước và bên ngoài”. |