“Các giải pháp hành chính sẽ không thể giảm tình trạng ‘đôla hóa’ nền kinh tế Việt Nam. Vấn đề quan trọng là tăng cường niềm tin của nhân dân đối với đồng tiền Việt Nam thông qua tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, ổn định tỷ giá, cải cách chính sách tiền tệ và tăng cường năng lực của các thể chế tài chính” – ông Ayumi Konishi , Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam đã nói như vậy khi được hỏi về biện pháp phi đôla hóa.
Nhiều loại tiền tệ cùng lưu thông trong nước liệu có gây ảnh hưởng gì đến nền kinh tế không, thưa ông?
Trong nhiều nền kinh tế đang chuyển đổi, một hay nhiều ngoại tệ cùng lưu hành với đồng nội tệ không còn là điều hiếm thấy. Ngoại tệ và đồng nội tệ cùng nhau thực hiện ba chức năng tiền tệ – đơn vị thanh toán, phương tiện trao đổi, và phương thức lưu giữ giá trị. Hiện tượng này được gọi bằng ngôn ngữ học thuật là “Đôla hoá” hoặc “Hiện tượng đa tiền tệ”.
Khi nhiều loại tiền tệ cùng lưu thông, các cơ quan quản lý tiền tệ phải đối mặt với một loạt thách thức. Quốc gia không chỉ mất nguồn thu từ việc độc quyền quyết định lượng ngoại tệ lưu thông và gia tăng trên thị trường, mà còn mất khả năng tự do điều hành chính sách tỷ giá và tiền tệ độc lập. Thêm vào đó, chức năng cho vay cứu cánh của Ngân hàng trung ương có thể không thực hiện được. Do hiện tượng đa tiền tệ làm giảm khả năng của Ngân hàng trung ương trong việc phát hành đồng nội tệ mà thị trường chấp nhận, nên chức năng bảo lãnh và cho vay cứu cánh của Ngân hàng trung ương cũng bị hạn chế.
Mặt tích cực của hiện tượng đa dạng hoá tiền tệ là gì?
Mặt tích cực của hiện tượng đa tiền tệ là hiện tượng này áp đặt kỷ luật đối với cơ quan quản lý tiền tệ, vì thâm hụt ngân quỹ quốc gia không thể dễ dàng được bù đắp bằng việc in tiền, hoặc áp thuế lạm phát. Dao động giá cả trên thị trường cũng giảm nếu đa tiền tệ dẫn tới một chế độ tỷ giá danh nghĩa cố định. Các đơn vị kinh tế nhìn chung thích sử dụng đồng ngoại tệ để thanh toán cho hàng hoá nhập khẩu. Họ không có niềm tin hoàn toàn vào sự ổn định của đồng nội tệ, vì vậy họ thường chọn sử dụng ngoại tệ để tránh thiệt hại do sự dao động lớn của tỷ giá hối đoái và các điều kiện kinh tế vĩ mô.
Lưu hành nhiều loại tiền tệ trong nền kinh tế có cả mặt lợi và hại, vì vậy các cơ quan quản lý nhà nước cần đánh giá thực trạng và áp dụng chiến lược quản lý phù hợp với ưu tiên phát triển của đất nước. Ở Việt Nam, tiền Đồng là tiền tệ chính thức duy nhất được sử dụng như một đơn vị trong thanh toán và trao đổi hàng hoá. Tuy nhiên, đôla Mỹ vẫn được phép dùng làm phương tiện lưu giữ giá trị, hệ quả là một phần lớn tiền gửi trong hệ thống ngân hàng là tiền Đôla.
Tình hình đôla hóa của Việt Nam hiện nay ra sao?
Vấn đề Đôla hoá ít trầm trọng hơn ở Việt Nam khi so sánh với Campuchia và Lào, tuy nhiên, các cơ quan quản lý kinh tế của Việt Nam lại phải đối đầu với vấn đề ổn định nền kinh tế, vấn đề kém linh hoạt của hệ thống khi chưa chuyển đổi hoàn chỉnh sang nền kinh tế thị trường. Ví dụ, chính phủ vẫn muốn duy trì quyền kiểm soát một số lượng lớn các tập đoàn chiến lược thuộc sở hữu nhà nước, gây ra sự khác biệt đáng kể trong chiến lược phát triển khi so sánh với các nền kinh tế chuyển đổi khác. Mặc dù có nhiều tiến bộ vượt bậc trong vài thập kỷ qua, Việt Nam vẫn cần phải cải thiện vai trò của Ngân hàng trung ương và khả năng cạnh tranh quốc tế của các ngân hàng thương mại.
Theo ông, Việt Nam phải làm gì để cải thiện tốt hơn tình trạng này?
Theo tôi, cần phải quản lý tốt hơn các dòng tiền tệ, sử dụng hiệu quả hơn các công cụ tiền tệ, nắm bắt tốt hơn các cơ chế chuyển đổi kinh tế thông qua hệ thống giá cả. Những yếu kém hiện thời bao gồm hệ thống thông tin chưa đầy đủ, cải tiến công nghệ của hệ thống thanh toán và hệ thống giám sát chưa hoàn thiện, và khung thể chế còn chưa hoạt động hiệu quả. Trong khi các cơ quan quản lý tiền tệ còn đang chật vật để cải thiện việc điều phối các chính sách kinh tế vĩ mô, Việt Nam sẽ thu được lợi ích thông qua tăng cường tham gia vào những thảo luận khu vực và từng bước tiến dần đến hợp tác khu vực sâu rộng hơn.
Xin cảm ơn ông!
Phan Anh (thực hiện)
Theo Thế giới &Việt Nam