Tỷ lệ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh vẫn còn thấp ở vùng đồng bào DTTS |
Nhiều đổi mới trong triển khai chính sách
Năm 2016, thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, UBDT đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện các chính sách dân tộc giai đoạn 2011- 2015. Qua tổng kết, đánh giá, UBDT đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, bất cập, nguyên nhân. Từ đó tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh các chính sách dân tộc giai đoạn 2016 - 2020 cho phù hợp với thực tế. Cụ thể như, thay vì “hỗ trợ trực tiếp cho hộ gia đình” bằng “hỗ trợ cho cộng đồng, tạo sinh kế” (khắc phục tình trạng không hộ nào muốn thoát nghèo); từ “cho không” sang “cho vay với lãi suất ưu đãi” (khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại); từ “hỗ trợ lâu dài” sang hỗ trợ có điều kiện (hỗ trợ từ 3 - 5 năm phải cam kết thoát nghèo...); đối với những hộ già cả, hết sức lao động, không nơi nương tựa, hộ tàn tật,... chuyển sang hưởng chính sách xã hội. Bên cạnh đó, UBDT đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ thể chế hóa các quyết định theo hướng phân cấp mạnh hơn nữa cho địa phương (tỉnh, huyện) quản lý với sự tham gia của cộng đồng, nhằm phát huy tinh thần tự chủ, tự cường của đồng bào.
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT Đỗ Văn Chiến, năm 2016 cũng là lần đầu tiên UBDT có được bộ số liệu khá đầy đủ đến từng xã, từng dân tộc, thông qua kết quả “Điều tra, đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS”. Với kết quả điều tra này, chúng ta có cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý, hoạch định chính sách một cách chính xác, đầy đủ và khoa học.
Phát triển bền vững để giải quyết căn bản các vấn đề
Theo cam kết, năm 2015 là năm cuối cùng thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs). Trên bình diện quốc gia, Việt Nam thực hiện được hầu hết các mục tiêu. Tuy nhiên, cả 8 Mục tiêu Thiên niên kỷ đều không được hoàn thành đối với vùng miền núi và DTTS. Tỷ lệ đói nghèo, phổ cập giáo dục, sức khỏe bà mẹ, trẻ em và đảm bảo vệ sinh môi trường vùng DTTS vẫn còn chênh lệch khá lớn so với mặt bằng cả nước.
Với quyết tâm thực hiện các mục tiêu chưa được hoàn thành và hướng tới Mục tiêu Phát triển Bền vững sau năm 2015 (SDGs), ngày 10/9/2015, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1557/QĐ-TTg phê duyệt một số chỉ tiêu thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ đối với đồng bào DTTS. Thực hiện quyết tâm này, năm 2016 Chính phủ đã dành sự quan tâm lớn đến vùng miền núi và DTTS, thể hiện bằng nhiều chính sách đặc thù như: Chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2016 - 2020; Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội các DTTS rất ít người giai đoạn 2016 - 2025; Hỗ trợ trực tiếp cho 12 dân tộc rất ít người; Chính sách Hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; Chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào DTTS giai đoạn 2015 - 2020; Nghị quyết số 52/NQ-CP về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các DTTS giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2030…
Trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu ưu tiên phân bổ nguồn lực cho vùng đặc biệt khó khăn, DTTS, miền núi cao hơn 2 đến 4 lần so với nơi khác; Trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, vùng DTTS và miền núi được thụ hưởng 2 dự án với số vốn gần 35.000 tỷ đồng.
Những chính sách trên được xác định sẽ là điều kiện căn bản để thúc đẩy vùng miền núi và DTTS phát triển. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Đỗ Văn Chiến, để thực hiện được các mục tiêu thiên niên kỷ đối với vùng miền núi và DTTS, cần thể chế hóa và lồng ghép các chỉ tiêu cho đồng bào DTTS vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2016 - 2020 của Quốc gia, các bộ, ngành và các địa phương. Xây dựng và thúc đẩy cơ chế hợp tác mới hiệu quả với các đối tác phát triển, khu vực tư nhân và tổ chức xã hội. Có như thế, mới hy vọng đạt được kết quả “không ai bị bỏ lại phía sau” như chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Các mục tiêu thiên niên kỷ đến năm 2020 với DTTS: Tỷ lệ hộ nghèo trên 25%; Tỷ lệ 10 tuổi trở lên biết chữ 92%; Tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng/tuổi (dưới 5 tuổi) dưới 14%; Tỷ suất tử vong mẹ trong 100.000 ca đẻ sống dưới 100; Tỷ lệ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh trên 30%. |