Chính sách dân tộc đang góp phần thay đổi diện mạo của nhiều vùng đồng bào DTTS |
Nhiều bất cập trong chính sách
Theo thống kê, Việt Nam hiện có 500 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến giảm nghèo, trong đó có 188 văn bản liên quan trực tiếp và còn hiệu lực thi hành, với đối tượng thụ hưởng là đồng bào DTTS.
Số lượng chính sách như vậy, theo ông Ksor Phước là rất lớn, phản ánh sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta với đồng bào DTTS. Tuy nhiên, là người tâm huyết và gắn bó sâu sắc với công tác dân tộc từ nhiều chục năm nay, ông Ksor Phước thừa nhận: Các chính sách đang có sự chồng chéo. Nhiều chính sách có nội dung giống nhau, có những chính sách nội dung khác nhau nhưng lại có mức chi bằng nhau. “Có những chính sách giống như “rải tiền”, trong khi hiệu quả tác động là không đáng kể” - ông Ksor Phước thẳng thắn.
Đồng tình với những nhận định của ông Ksor Phước, bà Trương Thị Huệ - Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tỉnh Thái Nguyên nêu ví dụ: Nhiều người mang họ DTTS đã ra đô thị sinh sống lâu năm, nhưng vẫn được hưởng một số chế độ như đồng bào sống ở những vùng sâu, vùng xa.
Băn khoăn về những bất cập của những chính sách dân tộc đang thực hiện – ông Y Khut Niê – Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Lắk nêu ví dụ: Chính sách thu hút nguồn lực về các vùng đặc biệt khó khăn rõ ràng là một chính sách đúng, nhưng khi điều kiện kinh tế của các vùng này được nâng lên, điện - đường - trường - trạm được củng cố, thì việc tiếp tục thực thi chính sách thu hút ở địa bàn này là không còn phù hợp. Thay vì có giá trị động viên khuyến khích, chính sách lại khiến nhiều người tìm cách “chạy” về những vùng này công tác để hưởng chế độ.
Tiếp tục lật lại vấn đề nguồn lực - một trong những nguyên nhân khiến nhiều chương trình, chính sách dân tộc không về đích đúng hạn, bà Cao Thị Xuân - ĐBQH tỉnh Thanh Hóa nêu vấn đề: Hiện đã là tháng 5/2015, nhưng tổng số vốn đã cấp để thực hiện các chính sách dân tộc do UBDT phụ trách mới là 5.647 tỷ đồng, bằng 32% nhu cầu vốn kế hoạch (17.470 tỷ đồng). “Các chính sách đều do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, vậy nhưng nguồn lực cấp vốn lại không theo đúng lộ trình đề ra. Thực tế này đang khiến đồng bào mất niềm tin vào chính sách” – bà Xuân nhấn mạnh.
Xây dựng hành lang pháp lý
Số lượng chính sách nhiều nhưng chất lượng thấp, chính sách ban hành không có đủ nguồn lực thực thi... là thực tế đang diễn ra ở nhiều địa phương, với nhiều chính sách. Nguyên nhân của vấn đề này được ông Chu Lê Chinh - Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Lai Châu chỉ rõ: Chúng ta triển khai các chính sách dân tộc, nhưng lại thiếu một hành lang pháp lý trong quá trình thực hiện. Do đó, cần xây dựng Luật Dân tộc và Công tác dân tộc, để có những hướng dẫn trong thực thi, cũng như kịp thời xử lý những sai phạm trong quá trình thực hiện chính sách. Đặc biệt, cần khẩn trương rà soát lại toàn bộ các chính sách dân tộc hiện có, khắc phục những bất cập, để chính sách đi vào đời sống, là động lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng DTTS phát triển.
Bàn về việc thực hiện công tác dân tộc giai đoạn 2016 - 2020, ông Ksor Phước nhìn nhận: Công tác dân tộc là công tác đa ngành, đa nghề, đa lĩnh vực. Chính vì vậy, rất cần có trung tâm quản lý chính sách, theo dõi việc tổ chức thực hiện, xây dựng, triển khai, thanh tra, kiểm tra chính sách. Thống nhất quan điểm này, nhiều đại biểu đề nghị: Tập trung các chính sách vào đầu mối duy nhất là UBDT. Theo đó, UBDT sẽ là cơ quan giúp chính phủ rà soát lại những chính sách, khoanh lại từng nhóm, từng vùng, từ đó tùy từng vùng mà hoạch định hệ số cao hay thấp.
Ông Ksor Phước đề nghị: “Cùng với sự phát triển đi lên, cũng là vùng dân tộc, nhưng điều kiện mỗi vùng một khác. Chính vì vậy, thay vì cào bằng, thời gian tới, cần có những chính sách riêng cho từng vùng. Đặc biệt, cần tính tới bình đẳng chính trị; bố trí cho đồng bào tham gia vào chuỗi sản xuất hàng hóa tiên tiến, thay vì quan tâm chủ yếu đến yếu tố văn hóa như hiện nay”. |