Công khai, minh bạch nhưng sẽ rất chặt chẽ
Văn bản mới 16/03/2017 21:54 Theo dõi Congthuong.vn trên
Ông Đặng Quyết Tiến, Phó Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính), cho biết, dự thảo này đã được trình Chính phủ nhằm tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (DN) nói chung và chuyển đổi DN 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần nói riêng; đồng thời ngăn chặn tình trạng thất thoát vốn, tài sản nhà nước tại DN.
Đại diện Bộ Tài chính thừa nhận, quá trình bán vốn nhà nước tại vẫn còn “lỗ hổng” làm thất thoát tài sản nhà nước. Nhiều DN nhà nước có quỹ đất vàng lợi thế cho kinh doanh, nhưng không còn nhu cầu sử dụng hoặc trong diện phải di dời cũng không thực hiện trả lại đất cho nhà nước, mà kêu gọi nhà đầu tư cùng liên doanh, hợp tác đầu tư bằng cách góp giá trị lợi thế quyền thuê đất để khai thác quỹ đất hiện có, sau đó thực hiện thoái toàn bộ vốn góp.
“Thực chất đây là lách luật để chuyển nhượng đất cho nhà đầu tư. Việc thành lập công ty liên doanh, hợp tác đầu tư chỉ là hình thức và không minh bạch trong phương pháp xác định giá trị lợi thế quyền thuê đất khi góp vốn”, ông Đặng Quyết Tiến khẳng định.
Vì vậy, việc xử lý đất đai và xác định giá trị quyền sử dụng đất trong giá trị DN CPH có thể coi là vấn đề được quan tâm nhất. Dự thảo Nghị định chuyển đổi DN nhà nước thành công ty cổ phần hướng dẫn việc xác định giá đất cụ thể (cả thuê và giao) theo quy định của Luật Đất đai năm 2013.
Theo đó, căn cứ giá đất cụ thể, DN CPH có trách nhiệm tính vào giá trị DN và nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về đất đai. Đồng thời, Dự thảo Nghị định mới đã bổ sung quy định về xử lý đất đai đối với các DN quản lý nhiều đất đai ở những vị trí có lợi thế thương mại cao.
Ông Tiến cho biết thêm, dự thảo cũng quy định phương án sử dụng đất của DN phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đây là biện pháp nhằm đảm bảo, ngăn ngừa tình trạng DN lợi dụng tiếp tục nắm giữ, “ôm” lại toàn bộ diện tích đất đang quản lý dù chưa phù hợp ngành nghề kinh doanh, mục đích sử dụng đất cũng như quy hoạch của địa phương.
Một điểm mới đáng quan tâm đó là chính sách bán cổ phần cho người lao động trong DN CPH. Cụ thể, dự thảo quy định được điều chỉnh theo hướng người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của DN tại thời điểm xác định giá trị DN CPH (bao gồm cả người lao động tại các công ty con do công ty mẹ sở hữu 100% vốn điều lệ – DN cấp II – chưa được hưởng chính sách mua cổ phần ưu đãi tại các DN khác) sẽ được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm việc tại khu vực nhà nước với giá bán bằng 60% giá trị 1 cổ phần tính theo mệnh giá (10.000 đồng/cổ phần).
Phần giá trị ưu đãi này sẽ được trừ vào vốn nhà nước khi quyết toán và người lao động phải bỏ tiền để thanh toán 60% giá trị 1 cổ phần theo mệnh giá. Không thỏa thuận trước khi công khai đấu giá cổ phần
Liên quan đến nhà đầu tư chiến lược, theo quy định hiện hành, nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần tại DN CPH có nghĩa vụ phải cung cấp các nguồn lực theo cam kết cho DN nhưng không được bán cổ phiếu trong vòng 5 năm. Bộ Tài chính cho rằng, quy định này dẫn tới quyền lợi của các nhà đầu tư chiến lược bị hạn chế so với nghĩa vụ phải thực hiện.
Hơn nữa, quy định hiện hành về việc bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược có thể thực hiện thỏa thuận trước cuộc đấu giá công khai ra công chúng với tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư chiến lược do Ban chỉ đạo CPH trình cơ quan có thẩm quyền quyết định phương án cổ phần hóa phê duyệt. Cách làm này, theo Bộ Tài chính là “chưa đảm bảo tính công khai, minh bạch cũng như dễ dẫn đến thất thoát vốn nhà nước”.
Bộ Tài chính cho rằng, để khắc phục hạn chế trên, dự thảo Nghị định điều chỉnh quy định việc bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược theo hướng quy định rõ trách nhiệm bồi thường khi vi phạm các cam kết của nhà đầu tư chiến lược phải được thể hiện trong cam kết bằng văn bản của người có thẩm quyền; điều chỉnh việc bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược thực hiện sau cuộc bán đấu giá công khai (bỏ hình thức bán thỏa thuận trước);
Dự thảo Nghị định cũng thay đổi thời gian hạn chế chuyển nhượng cổ phần của nhà đầu tư chiến lược là 3 năm (thay cho 5 năm) để phù hợp với quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 119 Luật Doanh nghiệp (xác định như cổ đông sáng lập); đồng thời quy định cụ thể tiêu chuẩn của nhà đầu tư chiến lược phải có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 2 năm gần nhất tính đến thời điểm đăng ký mua cổ phần phải có lãi và không có lỗ lũy kế.