CôngThương - Nhưng, ở một góc độ nào đó cho thấy, sự nghèo nàn về sản phẩm, về kênh phân phối khiến thị trường tiêu thụ dù đánh giá còn khá rộng lớn thì doanh nghiệp cũng khó tiếp cận… Và chuyện xuất khẩu càng trở nên quá khó…
Không nhiều lựa chọn
Điểm mặt thương hiệu thực phẩm chế biến trên thị trường nội địa hiện nay, người tiêu dùng chỉ biết đến ngoài mấy cái tên đã quá đỗi quen thuộc như Vissan, Cầu Tre, Sagifood, D&F, SG Fisco, San Miguel, ABT, Việt Hương, Đức Việt hay C.P. Có lẽ, thói quen tiêu dùng vẫn hướng đến ăn thực phẩm tươi sống, cùng với sự khắc nghiệt trong việc đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ chế biến ở trình độ cao khiến doanh nghiệp phải cân nhắc khi quyết định đầu tư vào lĩnh vực này.
Ông Nguyễn Tuấn Sơn, giám đốc nhà máy thực phẩm Đồng Nai (Donafood) cho rằng, với tiềm lực kinh tế Việt Nam như hiện nay, xây dựng một nhà máy chế biến thực phẩm không phải chuyện quá tầm doanh nghiệp. Nhưng, máy móc chỉ là yếu tố tạo ra sản phẩm, còn bí quyết để cho sản phẩm đó phù hợp với khẩu vị người tiêu dùng, được thị trường chấp nhận lại do bàn tay con người, mà lĩnh vực này không phải ai cũng đáp ứng được. Và, quan trọng hơn, để chiếm được lòng tin từ phía người dùng, một thương hiệu thực phẩm chế biến phải mất thời gian lâu hơn so với ngành hàng khác…
“Cũng là dòng sản phẩm chả giò, xúc xích, lạp xưởng hay như thịt xông khói, nhưng của Vissan thường bán chạy hơn, một phần lý do nằm ở tên tuổi thương hiệu lâu năm”, ông Phương nói.
Quan điểm của ông Sơn, có lẽ đủ để giải thích thị trường thực phẩm chế biến hiện nay, không chỉ nghèo về thương hiệu mà còn cả ở dòng sản phẩm mới. Bà Lê Thị Thanh Lâm, phó tổng giám đốc SG Fisco nhìn nhận, thói quen ăn uống luôn đòi hỏi sự mới lạ, khẩu vị liên tục thay đổi nên đòi hỏi doanh nghiệp có tư duy sáng tạo ra sản phẩm mới. Nhưng, việc cho ra đời một sản phẩm không hề dễ, đòi hỏi có đội ngũ chuyên nghiệp tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích tâm lý thị trường, sau đó là hệ thống kênh phân phối và hàng loạt chi phí khác.
“Thực phẩm đông lạnh phải bán ở phân phối hiện đại, có tủ đông, làm mát, nhưng điều kiện đáp ứng hiện nay chưa cho phép doanh nghiệp làm ồ ạt sản phẩm mới” – bà Lâm nêu khó khăn.
Ngoài dòng sản phẩm truyền thống như giò lụa, giò thủ, chả, xúc xích, lạp xưởng, chả giò và một vài dạng đóng hộp (xuất hiện hàng chục năm nay), thì vài năm trở lại đây, người tiêu dùng ít có cơ hội thưởng thức loại mới. Nhiều doanh nghiệp khẳng định, trung bình mỗi năm họ làm ra năm, mười sản phẩm mới, nhưng điểm qua lại, thì đa số là sự “nâng cấp” cái cũ, như thay đổi chút ít nguyên liệu, gia vị, mùi vị, thậm chí là trọng lượng, bao bì… Dễ nhận thấy, cùng một loại chả giò, trước đây nguyên liệu chính là thịt, nấm mèo, bột, nhưng nay doanh nghiệp đã “khéo léo” tạo ra nhiều tên gọi khác nhau, như chả giò tôm, chả giò rế, chả giò há cảo. Tất nhiên, mùi vị thì vẫn… na ná giống nhau.
Trong khi, theo thừa nhận của doanh nghiệp, vòng đời sản phẩm chỉ nên duy trì tối đa 2 – 3 năm, vì ngày nay người dùng có thể ăn nhiều bột ngọt, nhưng mai họ đã chuyển sang bột nêm, đường… Đòi hỏi của thượng đế, ngành thực phẩm chế biến gần như chưa đáp ứng được.
Dừng ở đô thị
Thực phẩm chế biến, với đặc thù riêng đòi hỏi kênh phân phối là hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện ích – có tủ đông lạnh, làm mát, quầy kệ hợp vệ sinh. Điều kiện hạ tầng này, dù nhà sản xuất, nhà bán lẻ cố sức đầu tư cả chục năm nay, nhưng rốt cục, chỉ có thể tập trung ở các thành phố, đô thị, còn nông thôn, vùng sâu vùng xa thì hầu như… vắng bóng.
Ngay ở đô thị, người tiêu dùng vẫn chưa thể mua sản phẩm ở chợ, vì sản phẩm chủ yếu chỉ phân phối ở siêu thị. Nếu khắt khe hơn, người dùng có thể đòi hỏi sản phẩm phải đạt đến tiêu chuẩn khép kín: truy xuất nguồn gốc từ nguyên liệu đầu vào cho đến giết mổ, chế biến, phân phối… Và, với thực trạng ngành hiện nay, thì chưa một doanh nghiệp nào đáp ứng được…
Theo SGTT