Nhờ ứng dụng KHCN, nhiều hộ trồng cam ở Cao Phong (Hòa Bình) đã thu tiền tỷ sau mỗi vụ cam |
Quả ngọt nhờ ứng dụng KHCN
Nhận thức được vai trò quan trọng của KHCN, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết quan trọng về KHCN và khẳng định: “Cùng với giáo dục đào tạo, KHCN là quốc sách hàng đầu, là động lực cho phát triển kinh tế kỹ thuật”. Ngày 13/10/2015, Thủ tướng Chính phủ cũng có Quyết định 1747 QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng DTTS giai đoạn 2016 – 2025”.
Với những chủ trương, chính sách này, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng KHCN cho vùng DTTS và miền núi. Nhờ các công trình này, diện tích, năng suất và chất lượng của một số loại cây, con hàng hóa được nâng cao, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa như: cam Bắc Quang (Hà Giang), xoài Sơn La, quế Yên Bái, hồi Lạng Sơn, miến dong Bình Liêu (Quảng Ninh); gà đồi Yên Thế (Bắc Giang), quýt Bắc Kạn, gạo Điện Biên, nếp Tú Lệ (Yên Bái)…
Câu chuyện ứng dụng KHCN phục vụ phát triển sản xuất vùng DTTS ở Cao Bằng là một ví dụ. Là một tỉnh miền núi nghèo với hơn 95% dân số là đồng bào DTTS, để nâng cao thu nhập cho người dân, Cao Bằng xác định: Phải ứng dụng KHCN vào sản xuất, trên cơ sở những lợi thế của địa phương. Từ tư duy này, những năm qua, Cao Bằng đã chủ động triển khai nhiệm vụ KHCN gắn với các mô hình sản xuất nâng cao chuỗi giá trị, liên kết 4 nhà, hỗ trợ ban đầu cho người nông dân ứng dụng KHCN vào sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tiêu biểu như: Diện tích chè chất lượng cao của Cao Bằng đến nay đã mở rộng gần 100 héc – ta tại huyện Nguyên Bình và Thạch An, giúp nhiều hộ trồng chè, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Đề tài “Phục tráng giống cam quýt Hòa An”, đề tài “Ứng dụng vi ghép đỉnh sinh trưởng để phục tráng bảo tồn và phát triển giống quýt đặc sản Trà Lĩnh”, giúp mở rộng diện tích, nâng cao giá quýt lên 25.000 - 30.000 đồng/kg, nhiều hộ gia đình có thu nhập từ mô hình ứng dụng từ vài chục triệu đồng đến cả tỷ đồng…
Thay đổi nhận thứcđể phát triển
Có thể thấy, thực tế đang chứng minh, doanh nghiệp, địa phương nào biết áp dụng các thành tựu KHCN vào sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp, địa phương đó sẽ thành công. Nói cách khác, KHCN sẽ góp phần quan trọng trong việc thực hiện tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới vùng DTTS.
Tuy nhiên, đến nay, hoạt động ứng dụng KHCN vào sản xuất tại các vùng đồng bào DTTS vẫn đang gặp phải không ít khó khăn. Trong đó, nguyên nhân chính vẫn là do nhận thức của người dân về việc tham gia áp dụng các kết quả nghiên cứu KHCN còn hạn chế, một bộ phận người dân vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư của nhà nước. Nhiều đề tài triển khai khá thành công tại các thôn, bản, nhưng khi cán bộ rút đi, đề tài cũng dừng theo.
Trong khi đó, tại vùng DTTS và miền núi, đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào vùng sâu, vùng xa còn thiếu thốn, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí còn thấp dẫn đến những hạn chế trong việc tiếp cận, học hỏi thông tin của đồng bào. Đã vậy, chính sách liên kết 4 nhà đến nay vẫn còn gặp nhiều hạn chế, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia; công tác nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao KHCN trong sản xuất nông nghiệp chưa thực sự gắn với thực tiễn sản xuất.
Theo đó, để hoạt động KHCN thực sự là “đòn bẩy” thiết thực phục vụ sản xuất cho vùng đồng bào DTTS, bên cạnh các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sẽ hiệu quả hơn nếu chính quyền và các cơ quan chức năng tăng cường các buổi chuyển giao công nghệ cho đồng bào. Về phía bà con, bà con cần hiểu rằng, KHCN sẽ là công cụ hữu ích để giúp bà con tăng năng suất, hiệu quả cây con, cũng như bảo quản để nông sản giữ được lâu hơn. Chính vì vậy, bà con phải tích cực học hỏi, chịu khó áp dụng KHCN theo sự hướng dẫn của cán bộ phòng nông nghiệp. Có như vậy thì mới mong, sản xuất nông nghiệp của bà con sẽ có những bước tiến nhanh và hiệu quả.