Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc Việt Nam gia nhập công ước Istabul 1990 về chế độ tạm quản hàng hóa |
Trình bày tờ trình của Chính phủ về việc Việt Nam gia nhập Công ước Istanbul 1990 về chế độ tạm quản hàng hóa, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, Công ước Istanbul về tạm quản hàng hóa được ký kết ngày 26/6/1990, có hiệu lực ngày 27/11/1993 dưới sự quản lý của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO). Công ước đã đưa ra mô hình chuẩn các chứng từ tạm quản như các chứng từ hải quan quốc tế kèm bảo lãnh, góp phần thuận lợi hóa thủ tục tạm quản, đồng thời giúp các cơ quan quản lý hàng tạm quản chặt chẽ.
Cụ thể, cơ chế tạm quản vận hành dựa trên hệ thống Sổ Tạm quản (ATA carnet), là một bộ chứng từ hải quan duy nhất được quốc tế công nhận dùng để thay thế tờ khai hải quan áp dụng đối với hàng hóa đi lại theo chế độ tạm quản giữa các thành viên của Công ước Istanbul. Cơ chế tạm quản cho phép giảm tối đa các thủ tục liên quan khi xuất nhập khẩu (khai báo, nộp, hoàn thuế, xử lý giấy phép) vì các yêu cầu này đã được thực hiện từ trước tại quốc gia của chủ hàng thông qua việc sử dụng sổ tạm quản. Đây là một trong những biện pháp nghiệp vụ hải quan tiên tiến nhằm mục đích tạo thuận lợi tối đa cho một số hoạt động thương mại nhất định (hàng triển lãm, hội chợ, phục vụ các sự kiện, thiết bị nghề nghiệp).
Do đó, việc thực hiện Công ước Istabul có tác dụng giảm bớt giấy tờ, thủ tục, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả cán bộ hải quan và người sử dụng sổ. Bên cạnh đó, chống thất thu thuế vì hệ thống đảm bảo thanh toán các khoản thuế hải quan/thuế khác trong trường hợp người sử dụng sổ không thực hiện tái nhập/tái xuất theo quy định; cơ chế tạm quản tạo thuận lợi cho các thương nhân khi sử dụng một quyển sổ nhưng có thể đi lại nhiều nước thành viên trong hệ thống trong cùng một chuyến đi...
Trình bày báo cáo thẩm tra của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu khẳng định, Công ước Istanbul có mục tiêu tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế và hài hòa hóa các thủ tục tạm quản, giúp cơ quan quản lý kiểm soát tốt hàng hóa tạm nhập, tái xuất và tạm xuất, tái nhập. Theo quy định của Luật Điều ước quốc tế, Công ước được gia nhập với danh nghĩa Chính phủ. Tuy nhiên, Công ước Istanbul có một số nội dung khác với quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam.
Cụ thể, theo Điều 4 Công ước và Điều 4 Phụ lục A của Công ước, khoản đảm bảo nộp cho cơ quan bảo lãnh của nước cấp sổ tạm quản để bảo đảm nghĩa vụ thuế trong trường hợp vi phạm theo Điều 4 Công ước và Điều 4 của Phụ lục A (việc thực hiện cơ chế tạm quản theo Công ước Istanbul là do doanh nghiệp tự quyết định). Trong khi đó, Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2016, Điều 16 quy định hàng hóa tạm nhập - tái xuất hoặc tạm xuất - tái nhập để tham dự hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm, máy móc, thiết bị, dụng cụ nghề nghiệp tạm nhập - tái xuất hoặc tạm xuất - tái nhập để phục vụ công việc trong thời hạn nhất định được miễn thuế nhập khẩu. Hoặc theo Điều 4, Phụ lục B1 của Công ước, thời hạn tái xuất cho hàng nhập khẩu được trưng bày hoặc sử dụng tại triển lãm, hội chợ, hội nghị hoặc các sự kiện tương tự sẽ ít nhất là 6 tháng kể từ ngày hàng tạm quản. Nhưng Khoản 3 Điều 134 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Hàng hóa tạm nhập khẩu để tham gia hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam phải được tái xuất khẩu trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày kết thúc hội chợ, triển lãm thương mại”.
Với các vấn đề nêu trên, Thường trực Ủy ban Đối ngoại cho rằng, Công ước Istanbul là điều ước quốc tế đa phương về một lĩnh vực cụ thể là tạm quản hàng hóa trong khi pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về lĩnh vực này. Đối với Việt Nam, việc tham gia Công ước Istanbul cho phép các chủ thể từ các quốc gia tham gia Công ước có thêm lựa chọn áp dụng chế độ tạm quản hàng hóa theo quy định tại Công ước Istanbul bên cạnh chế độ quá cảnh hàng hóa đang thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam. Mặt khác, để thực hiện Công ước, Chính phủ đề xuất chỉ áp dụng Công ước đối với 11 cửa khẩu quốc tế, đồng thời dự kiến ban hành Nghị định hướng dẫn thực hiện Công ước Istanbul theo Điều 19 Khoản 3 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nghị định này sẽ quy định cụ thể về khoản đảm bảo và thời hạn tái xuất chỉ áp dụng đối với hàng hóa sử dụng sổ tạm quản. Hàng hóa tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập không áp dụng sổ tạm quản thì thực hiện theo thủ tục hải quan và tái xuất theo quy định hiện hành.
Trên cơ sở Tờ trình của Chính phủ và ý kiến của các đại biểu dự họp, Ủy ban Đối ngoại kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý với đề xuất của Chính phủ về việc Việt Nam gia nhập Công ước Istanbul về tạm quản hàng hóa. Với việc ban hành Nghị định hướng dẫn thực hiện Công ước Istanbul: Đề nghị Chính phủ hoàn thiện hồ sơ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến theo quy định tại Điều 95 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Kết luận phiên họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với đề xuất của Chính phủ về việc Việt Nam gia nhập Công ước Istanbul về tạm quản hàng hóa. Đề nghị Chính phủ xem xét thực hiện việc gia nhập này theo đúng quy định.