Lễ ký kết Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc
Trước đó, VKFTA đã được ký tắt tại Hàn Quốc hôm 28/3, sau khi công bố kết thúc đàm phán vào cuối 2014.
Sau 28 tháng đàm phán với 8 vòng đàm phán chính thức và 8 vòng đàm phán cấp Trưởng đoàn, đàm phán giữa kỳ, VKFTA đã trở thành hiệp định có khoảng thời gian đàm phán ngắn nhất, là hiệp định lớn đầu tiên được ký kết trong năm 2015. VKFTA được hoàn thiện trên cơ sở đề cao tính toàn diện, mức độ cam kết cao và đảm bảo cân bằng lợi ích hai bên.
Hiệp định gồm 17 Chương, 208 Điều, 15 Phụ lục và 01 Thỏa thuận thực thi quy định. Các nội dung chính của Hiệp định gồm: Thương mại hàng hoá, Thương mại Dịch vụ (bao gồm các Phụ lục về Dịch vụ Viễn thông, Dịch vụ Tài chính, Di chuyển thể nhân), Đầu tư, Sở hữu trí tuệ, Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), Quy tắc xuất xứ, Thuận lợi hóa hải quan, Phòng vệ thương mại, Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), Thương mại Điện tử, Cạnh tranh, Hợp tác kinh tế, Thể chế và Pháp lý.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Vũ Huy Hoàng (phải) và Bộ trưởng Bộ Thương mại Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc Yoon Sang-jick.
Về cơ bản, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng nhiều cơ hội thị trường mới nhờ các cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ của phía Hàn Quốc. Cụ thể, Hàn Quốc tự do hóa 97,2% giá trị nhập khẩu (tính theo số liệu năm 2012), chiếm 95,4% số dòng thuế, đặc biệt trong đó có nhiều nhóm hàng nông, thủy sản xuất khẩu chủ lực như: Tôm, cua, cá, hoa quả nhiệt đới, và hàng công nghiệp như dệt may, đồ gỗ, sản phẩm cơ khí...
Ngược lại, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế quan với 92,7% giá trị nhập khẩu (tính theo số liệu năm 2012), chiếm 89,2% số dòng thuế, chủ yếu với các nhóm hàng công nghiệp như: Nguyên phụ liệu dệt, may, nguyên liệu nhựa, linh kiện điện tử, xe tải và xe con từ 3.000 cc trở lên, phụ tùng ô-tô, điện gia dụng, một số sản phẩm sắt thép, dây cáp điện... Phần lớn trong số này là các nguyên, phụ liệu cần nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước, giúp giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ một vài nước khác.
Với VKFTA, các DN xuất khẩu nông sản của Việt Nam còn có lợi thế rất lớn. Đầu tiên, Hàn Quốc mở cửa thị trường đối với những sản phẩm hết sức nhạy cảm trong nước như: Tỏi, gừng, mật ong, khoai lang... (thuế suất những mặt hàng này rất cao từ 241-420% do đặc biệt nhạy cảm với Hàn Quốc). Tuy nhiên, hiệp định này sẽ không bao gồm gạo – là một trong những mặt hàng được “khá nhạy cảm” đối với Hàn Quốc.
Đại diện cấp cao hai nước có buổi làm việc trước khi ký kết hiệp định.
Sẽ không chỉ có những mảng “màu hồng”, hiệp định cũng sẽ đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam. Theo phân tích của Bộ Công Thương Việt Nam: Thứ nhất, việc cắt giảm thuế quan sẽ tạo thêm sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước. Thứ hai, các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ phải không ngừng kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực cán bộ mới có thể đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong môi trường kinh tế vận hành theo thông lệ quốc tế. Thứ ba, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân cần phải nhận thức đầy đủ hơn về tiến trình hội nhập nói chung và việc thực hiện Hiệp định VKFTA nói riêng, qua đó mới có thể khai thác hiệu quả các lợi ích cũng như hạn chế những tác động bất lợi của Hiệp định.
Được biết, Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ 9 của Hàn Quốc và Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam (sau Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc). Hàn Quốc còn là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam với số vốn trên 38 tỷ USD và hơn 4,2 ngàn dự án còn hiệu lực.