CôngThương - Mặc dù vậy, nhìn chung, chè Việt Nam năng suất không cao, chất lượng không bảo đảm, không ổn định và chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô, nên giá chỉ bằng 50% giá thế giới. Và nếu chỉ dừng lại như hiện nay, xuất khẩu chè Việt Nam khó có thể coi là mặt hàng chủ lực, đời sống của một bộ phận khá lớn đồng bào dân tộc trồng chè ở 15 tỉnh miền núi phía Bắc sẽ không thể đồng hành cùng cả nước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thời gian qua, Đề tài KC.06/06-10, đề tài khoa học – công nghệ cấp Nhà nước về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm chủ lực cùng với các nhiệm vụ khoa học – công nghệ các cấp khác đã góp phần giải quyết nghịch lý này của ngành chè. Kết quả sau khi triển khai giống mới, kỹ thuật canh tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại 7 tỉnh miền núi phía Bắc với diện tích 1.000 ha, năng suất tăng từ 1,5 - 2 lần, đặc biệt giá chè nguyên liệu tăng 1,5 - 3 lần, do chất lượng tốt. Tính về hiệu quả của việc áp dụng trong khuôn khổ 1.000ha của dự án thuộc đề tài: thu thêm 24 tỷ đồng - với mức lãi thuần tăng thêm 10 tỷ đồng (tăng thêm 24 triệu đồng/ha - lãi thuần tăng thêm 10 triệu đồng/ha/năm) so với áp dụng công nghệ cũ; ổn định việc làm có thu nhập cao hơn trước đây cho 4.000 lao động... Về chế biến, đề tài đã thành công trong việc chế biến chè Phổ Nhĩ có giá cao gấp 7-8 lần chè đen, vì đây không chỉ là nước uống giải khát, mà còn có khả năng hạn chế các bệnh như tiểu đường, mỡ máu và tim mạch. Đặc biệt ở đây là công nghệ chế biến và lưu giữ (cũng như rượu, càng lưu giữ lâu chè Phổ Nhĩ giá càng cao).