Hội thảo đã thu hút sự quan tâm và tham gia của đông đảo các doanh nghiệp trên địa bàn TP. Đà Nẵng .
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - nhấn mạnh hàng rào phi thuế quan là vấn đề quan trọng chủ yếu trên bàn đàm phán để đạt được tự do hóa thương mại, cụ thể hóa bằng các Hiệp định Thương mại tự do (FTAs).
Hội thảo đã điểm lại quá trình hội nhập của Việt Nam, tương lai và những thách thức trước mắt, nhất là sau khi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được ký kết. Và trọng tâm nhất là thảo luận thực tiễn thực hiện các biện pháp phi thuế (NTMs) trong ASEAN và Việt Nam.
Nhìn chung các ý kiến trao đổi cho thấy mức độ sử dụng NTMs trong ASEAN còn khá yếu và thưa. Riêng tại Việt Nam, NTMs chỉ được biết đến phổ biến từ năm 2011, tuy nhiên, so với khu vực và thế giới thì vẫn còn mỏng và yếu.
Ông Nguyễn Anh Dương, Phó Trưởng ban chính sách Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho biết: “Hiện nay, có 35% số dòng sản phẩm của Việt Nam phải chịu áp dụng NTMs. Phần lớn trong số đó chịu hơn 3 loại phi thuế khác nhau, đặc biệt là động vật tươi sống, rau củ chịu NTMs nhiều nhất”. Ông Dương cũng cho biết thêm, việc áp dụng các NTMs đối với các dòng sản phẩm của Việt Nam khiến cho thời gian nhập sản phẩm vào các nước khác bị kéo dài, chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng...
Riêng đối với các biện pháp phi thuế trong kiểm dịch động thực vật (SPS) và rào cản kỹ thuật (TBT) tập trung vào các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tại những thị trường này, NTMs được áp dụng ổn định, thường xuyên và liên tục, do đó việc tuân thủ đòi hỏi những thay đổi quan trọng đối với hàng hóa thành phẩm xuất khẩu, quá trình nuôi trồng khai thác nguồn nguyên liệu và quy trình chế biến, đóng gói, vận chuyển sản phẩm.
Tại hội thảo, các chuyên gia đến từ Dự án EU – Mutrap cũng như Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã đưa ra khuyến nghị hỗ trợ doanh nghiệp chủ động và dễ dàng hơn trong các FTAs như thường xuyên cập nhật các cơ sở dữ liệu tại các điểm hỏi đáp SPS và TBT của Chính phủ, xây dựng cơ sở dữ liệu thương mại quốc gia và xác định mã HS rõ ràng từ các văn bản pháp quy có liên quan lẫn những khuyến nghị có ảnh hưởng đến hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp ở Việt Nam.