Bảo tồn di sản phải được cộng đồng ủng hộ |
Thách thức bảo tồn
Thống kê từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH-TT&DL) cho thấy, Việt Nam có kho tàng di sản văn hóa khổng lồ với 40.000 di sản vật thể, 60.000 di sản phi vật thể. Tuy nhiên, trong dòng chảy của phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập ngày một mạnh mẽ, bên cạnh mặt tích cực là những “khoảng tối” khiến bản sắc văn hóa, di sản đang bị xói mòn, mai một và có nguy cơ mất đi.
Theo PGS-TS. Lê Văn Toàn - Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, trong quá trình cùng cộng đồng xây dựng một số hồ sơ di sản như: Nhạc cung đình Huế, hát ca trù, hát xoan Phú Thọ, nghệ thuật đờn ca tài tử... nhiều loại hình nghệ thuật âm nhạc của đất nước đã hồi sinh, các giá trị di sản được phát huy trong cuộc sống mới, nhận thức về bảo tồn di sản trong cộng đồng được nâng cao. Tuy nhiên, cũng có địa phương do chưa có ứng xử đúng mực, kịp thời, đồng bộ nên hoạt động bảo tồn chưa đạt hiệu quả cao, kết quả chưa mang tính bền vững. Thậm chí, phải đối diện nguy cơ nhiều di sản bị mất đi.
PGS-TS. Lê Văn Toàn dẫn chứng về trường hợp chèo chải hê ở Lim, Bắc Ninh. Loại hình nghệ thuật này đã được phục hồi theo chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa. “Khi thực hiện dự án, di sản được phục hồi, bà con rất phấn khởi, nhưng do không được các cấp chính quyền xã, huyện quan tâm và đầu tư kịp thời, đồng bộ nên di sản lại dần rơi vào thế “côi quạnh”. Và cuối cùng, chèo chải hê - di sản từng được coi là quan họ hiếu vùng Kinh Bắc đã bị thất truyền” - PGS-TS. Lê Văn Toàn nói.
Gắn kết với kinh tế du lịch
Một trong những giải pháp mà các nhà nghiên cứu đưa ra trong việc bảo tồn di sản văn hóa chính là gắn kết di sản với phát triển kinh tế du lịch và cần khai thác bền vững các giá trị di sản bằng cách dựa vào cộng đồng. Bởi trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường, chúng ta phải biết cách biến di sản thành tài sản, biến tài nguyên thành tài chính, biến văn hóa thành hàng hóa, biến môi trường thành thị trường.
Hiện Việt Nam có nhiều chính sách xã hội, mô hình phát triển du lịch gắn với cộng đồng đang ngày càng được nhân rộng. Vì vậy, theo các đại biểu, đây là hướng đi đúng và có nhiều tiềm năng. Điển hình như việc đưa di sản vào phục vụ hoạt động du lịch như hát quan họ trong hội Thổ Hà, Hội Diềm xá (ở Bắc Ninh), hát bài chòi (Hội An)... đã mang lại hiệu quả trong việc bảo tồn di sản văn hóa trong phát triển bền vững hiện nay.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng khuyến cáo, khi tiến hành, đẩy mạnh mô hình du lịch gắn với cộng đồng cần có tầm nhìn xa. Do hiện nay loại hình du lịch này chủ yếu gắn với xóa đói giảm nghèo và sản phẩm du lịch vẫn mang tính “ăn xổi”, giá trị thấp, mang tính ngắn hạn chứ chưa mang tính bền vững cao. Vì vậy, thay vì quan niệm du lịch gắn với xóa đói giảm nghèo cần phát triển tư duy du lịch văn hóa theo nghĩa rộng hơn.
Trước mắt, để di sản là nguồn tài nguyên phát triển kinh tế du lịch phải để di sản sống cùng cộng đồng. Theo TS. Lê Thị Minh Lý - Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát huy giá trị di sản văn hóa - hầu hết cộng đồng các di sản đều tham gia tích cực và làm sống dậy mạnh mẽ các di sản của cha ông để lại. “Nhiều loại hình âm nhạc, nghệ thuật dân gian từng bị lãng quên nhưng do được quan tâm, nay cũng từng bước được hồi sinh và dần hưng thịnh. Điều đó cho thấy, khi di sản sống trong cộng đồng, được nuôi dưỡng bởi cộng đồng sẽ phát huy được giá trị” - TS. Lý nhấn mạnh.
Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL Huỳnh Vĩnh Ái: Việc kết hợp giữa bảo tồn, phát huy di sản với phát triển bền vững cần có cách thức, chuẩn giá trị, thực hiện theo nguyên tắc như thế nào để văn hóa có đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước. |