Bia hơi 3 hào buồn, vui lãng đãng...
Địa phương 26/01/2017 12:12 Theo dõi Congthuong.vn trên
Minh họa Quốc Việt |
Khởi thủy dòng bia Hà Nội
Theo một số tài liệu còn lưu giữ, năm 1890, có một cặp vợ chồng người Pháp mở một xưởng làm bia nhỏ trên núi Voi, thuộc làng Đại Yên, Ngọc Hà, Hà Nội, đặt tên là Nhà máy bia Hommel - nơi ngày nay chính là Nhà máy bia Hà Nội - chỉ có vài chục công nhân, sản xuất vỏn vẹn 150 lít bia hơi/ngày. Đến năm 1940, Hommel đạt sản lượng 5 triệu lít/năm, chủ yếu là bia hơi, “rót” bia cho khắp Đông Dương.
Sau năm 1954, miền Bắc được giải phóng, nhà máy bia Hommel về tay chính quyền Hà Nội trong tình trạng hư hỏng nặng nề. Đầu năm 1957, Hommel được khôi phục với tên gọi mới: Nhà máy bia Hà Nội. Ngày 15/8/1958, mẻ bia chính thức đầu tiên tuôn chảy, được đóng chai và tung ra thị trường với cái tên gợi cảm: Bia Trúc Bạch. Sau đó, các dòng bia (bia hơi, bia chai, bia hộp) với nhiều tên gọi như Hồng Hà, Hà Nội, Trúc Bạch, Hữu Nghị... liên tục chảy ra thị trường và bia hơi được dân Hà thành chào đón nhiệt tình nhất.
“Chuồng cọp” - bia với… sắt
Những năm 60 của thế kỷ trước, không biết ai đã nghĩ ra cái từ “chuồng cọp” khủng khiếp để đặt tên cho các quán bia hơi Hà Nội, nơi hứng khởi thưởng thức một thứ nước uống làm say lòng người? Phải chăng họ liên tưởng tới những chuồng hổ, chuồng báo trong Bách Thảo? Gọi mãi rồi thành quen miệng.
Tại Hà Nội thời đó, các “chuồng cọp” không nhiều, chỉ một vài “chuồng” nổi danh: Nguyễn Bỉnh Khiêm (gần công viên Thống Nhất), Cổ Tân (bên cạnh Nhà hát lớn), vườn hoa Lê Quý Đôn, Trần Hưng Đạo (sát cạnh nhà vệ sinh công cộng)... Cũng chỉ duy nhất “lò” Nhà máy bia Hà Nội rót bia hơi cho các “chuồng cọp”.
Kể ra gọi là “chuồng cọp” cũng phần nào đúng bởi các quán bia ở Hà Nội thời đó đều mang đậm chất... sắt thép. Quán bia nào cũng có hàng rào sắt kiên cố bao quanh, cứ như là để phòng ngừa các đệ tử bia bọt bị ma men khuấy đảo trở thành cọp dữ.
Trong những hàng rào sắt kiên cố đó là bãi bia. Gọi là bãi bia vì bàn ghế rất ít. “Chuồng cọp” Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ có vài chiếc bàn chân sắt gỉ nhoèn, đen sì, mặt bàn bằng đá granito sứt sẹo, nham nhở, khách uống bia... đứng là chính. Nhiều khách phải rút dép nhựa ra kê mông ngồi bệt xuống bãi cỏ lưa thưa, đặt vài cốc bia trước mặt, ngâm nga thưởng thức, thi thoảng lại lững thững đến cửa hầm tăng-sê ở góc khuất vô tư... xả bớt bia trong người ra.
“Chuồng cọp” Cổ Tân, Lê Quý Đôn sang hơn, có dăm chiếc ghế đẩu, chân cũng bằng sắt cập kênh, khách vào uống bia cứ trợn mắt nhớn nhác tìm ghế, lắm khi cãi nhau vì chiếc ghế...
Các “chuồng cọp” còn phát huy sáng tạo, thiết kế một hành lang hình chữ chi bằng những thanh sắt kiên cố, nhỏ hẹp chỉ vừa đi lọt một người, cốt để các “cọp” phải xếp hàng trật tự, không chen ngang. Bia ít, người nhiều, kiếm được cốc bia phải chen chúc xếp hàng, mất cả cốc đầy... mồ hôi.
Buồn, vui bia và người...
Bia hơi thời đó giá chỉ có 3 hào một vại 0,5 lít. Cốc bia bằng thủy tinh đúng 0,5 lít, dày và to như cái vại, nâng lên lâu mà không uống chắc mỏi rời rã tay, chứ không như bây giờ ăn bớt, 1 lít bia rót đầy ứ 3 cốc.
Do mậu dịch quốc doanh độc quyền bán bia, nên sinh nhiều chuyện kỳ quặc. Khách đông, bia ít, cái sự lộn xộn hay xảy ra, lại thêm không khí nóng hừng hực của tiết trời mùa hè, của cái khối người lồng lên vì bia, nên nụ cười trên môi của các cô mậu dịch viên... hiếm hơn cả bia, mặt lạnh chẳng khác bom bia, nói cộc lốc cứ như dao băm thớt.
Của hiếm là của quý, tất sinh sự bán kèm - chuyện thường ngày ở các “chuồng cọp”. Bia kèm lạc, kèm nộm, bia kèm đậu rán, bia pha si-rô... y chang lấy được cô chị đẹp làm vợ phải đèo bòng thêm cô em dở người. Âu cũng là thèm bia phải kèm đồ hẩm mà thôi!
Nói của đáng tội, thời bao cấp, cái gì cũng phải tem phiếu, các “chuồng cọp” lấy đâu ra lắm thịt thà cá mú để làm nhiều món nhắm cho dân bia bọt thưởng thức. Vì vậy, người ta uống bia là chính, ăn là phụ. Đồ nhắm giản dị thôi, gói lạc rang húng lìu, dúm lạc luộc, đĩa nộm đu đủ nho nhỏ, con mực nướng bé tẹo bằng bàn tay trẻ con, đĩa đậu phụ rán, luộc lỏng chỏng dăm ba miếng. Ai sang trọng lắm cũng chỉ gặm cái cổ vịt quay, chân vịt luộc gầy khẳng khiu, mãn nguyện lắm rồi. Thi thoảng ai đó đùm một nắm tóp mỡ rán mua của mậu dịch đóng thành bánh, khô cứng, khen khét, mang ra uống bia, quá ngon!
Còn nhớ, ở “chuồng cọp” Nguyễn Bỉnh Khiêm có hai chị em gái chuyên bán đậu phụ rán, cổ vịt quay, mực nướng. Cô chị là Oanh “toét” vì mắt bị lông quặm, nước mắt suốt ngày ướt nhèm, trông toen toét, bẩn bẩn. Cổ vịt quay của chị em Oanh “toét” lại rất ngon, mềm, thơm. Đặc biệt, cô em gái hát nhạc vàng tuyệt hay. Ai đã một lần nghe cô hát “Nỗi buồn hoa phượng”, “Đồi sim tím”... với giọng thổn thức, ướt át chẳng khác ca sĩ Thanh Tuyền của Sài Gòn, ắt không thể nào quên. Đôi khi cô vừa nướng mực vừa khẽ khàng hát một vài câu: “Có ai đã từng nhặt hoa thấy buồn... Màu hoa phượng thắm như máu con tim...”, “Ôi, ngày trở lại nhìn đồi sim nay vắng người em thơ, ôi đồi sim tím, chạy xa tít, lan dần theo bóng tối...”. Tiếng hát ngọt nhẹ lẩn quất trong khói than nướng mực thơm thơm, khiến không ít kẻ bia bọt si tình phải lay động con tim.
Có lẽ vì ít món nhắm nên nhiều người chỉ uống bia hơi xuông rồi về nhà ăn cơm rau muống với vợ. Thật ra, thời đó lương trung bình của CBCNVC chỉ có 36 - 45 đồng. Ngày nào cũng chỉ cần uống 2 vại bia hơi, cầm chắc nửa tháng lương sẽ bay theo... hơi bia. Dân ham bia hơi lắm khi đi qua “chuồng cọp” phải nuốt nước bọt, đạp xe phóng nhanh, thoát mau khỏi mùi bia - mực thơm nồng quyến rũ hơn cả... quyến rũ!
Có một thứ ở “chuồng cọp” khiến dân uống bia mê mẩn: Lạc rang húng lìu (ngọt và mặn) của mấy ông phá - xang Tàu, người guộc gầy, đầu đội mũ phớt dạ cũ méo mó bạc màu, vai đeo lủng lẳng cái hòm gỗ cũ, kẹp nách cái chân hòm hình chữ “X” cũng bằng gỗ. Ai hô mua, tay ông thoăn thoắt cuộn tờ giấy báo thành hình cái sâu kèn nho nhỏ, thò tay vào cái túi vải trong hòm, bốc ra một dúm lạc rang thả vào cái sâu kèn, đưa cho khách, cái mũ phớt hơi cúi nghiêng kính cẩn: “Cám ơn”.
Lạc rang khá rẻ, loại sâu kèn nhỏ chỉ 1 hào, loại to cũng chỉ 2 hào. Những hạt lạc nóng hổi, áo lạc màu nâu sẫm, thơm phức, ai trước khi ăn cũng phải đưa lên mũi ngửi, hai ngón tay khẽ khàng bóp, áo lạc vụn vỡ, bay lả tả xuống vạt áo, hạt lạc tròn, mẩy giòn tan, mười hạt đều tăm tắp cả mười, phảng phất mùi hương húng lìu thơm nhè nhẹ như... hương trinh nữ!... Nay các ông phá - xang đã bay về miền sương khói xa thẳm. Không biết nơi đó có quán bia hơi không để các ông bán lạc làm vui?...
Có người nói: Trong cuộc sống thường ngày bình dị, Hà Nội có hai ấn tượng khó phai, đó là tà áo dài mềm mại thướt tha kiều diễm và vại bia hơi Hà Nội mát lạnh ngất ngây say. Đến ngày nay, hai ấn tượng ấy không những không phai nhạt mà ngày càng sâu đậm thêm không chỉ riêng với người Hà Nội.
Phải chăng sẽ là mãi mãi?