Ảnh minh họa |
Kết thúc năm 2016, tổng công suất thiết kế của toàn ngành xi măng Việt Nam đạt con số gần 88 triệu tấn, trong khi tiêu thụ nội địa chỉ trên dưới 60 triệu tấn. Đến năm 2018, các dự án đầu tư xi măng mới đi vào hoạt động, tổng công suất thiết kế sẽ nâng lên 108 triệu tấn và năm 2020 sẽ tới 120- 130 triệu tấn. Trong khi đó, theo quy hoạch phát triển xi măng, sức tiêu thụ nội địa chỉ trên dưới 90 triệu tấn (nhiều chuyên gia chỉ đưa ra dự báo khiêm tốn, khoảng 80- 82 triệu tấn).
Không đợi đến năm 2020, áp lực dư thừa xi măng đã hiện hữu, dù thị trường bất động sản được dự báo đầy lạc quan. Cạnh tranh tiêu thụ nội địa gia tăng độ nóng, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xi măng buộc phải “chiến đấu” vô cùng căng thẳng nhằm giành giật thị phần. Và, để giảm áp lực tiêu thụ xi măng, con đường xuất khẩu đã được nhiều doanh nghiệp xi măng khai phá, mở mang, nhưng gặp rất nhiều gập ghềnh, rủi ro.
Theo Quyết định 1469/QÐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 của Chính phủ, đến năm 2030, mỗi năm Việt Nam cần xuất khẩu lượng xi măng và clinker tương đương 20- 35% tổng công suất.
Đây là định hướng đúng đắn, phù hợp, nhất là khi nguồn cung xi măng đã và sẽ vượt xa nhu cầu tiêu thụ nội địa. Tuy nhiên, để đứng vững trên thị trường thế giới, doanh nghiệp Việt phải đối mặt với nhiều yếu tố cạnh tranh, đặc biệt về giá cả.
Theo nhiều doanh nghiêp, giá nguyên liệu, nhiên liệu đầu vào sản xuất tăng, chi phí xuất khẩu tăng... khiến xi măng xuất khẩu khó cạnh tranh về giá. Ví dụ, Nghị định số 100/2016/NÐ-CP quy định xi măng khi xuất khẩu không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào và phải chịu thuế suất thuế xuất khẩu 5%. Như vậy, chi phí xuất khẩu clinker có thể tăng lên 4,5 USD/tấn (theo giá FOB bình quân 30USD/tấn) và xi măng tăng 7,5 USD/tấn (theo giá FOB bình quân 50 USD/tấn). Xi măng Việt Nam khó cạnh tranh với xi măng Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Nhật Bản- những cường quốc sản xuất, xuất khẩu xi măng.
Thực tế, lượng ximăng và clinker xuất khẩu trong năm 2016 chỉ đạt hơn 14,7 triệu tấn, trị giá khoảng 561 triệu USD, giảm 7,1% về lượng và 16% về giá trị so với năm 2015 (số liệu của Tổng cục Hải quan). Đáng chú ý, từ giữa năm 2016, giá xi măng xuất khẩu đã giảm khoảng 10 USD/tấn so với cuối năm 2015.
Nguồn cung dư thừa, tiêu thụ nội địa không có đột phá, xuất khẩu chịu nhiều sức ép lớn, và vì thế, tương lai gần, xi măng Việt ra thị trường thế giới không mấy lạc quan.